Suy Niệm Lẽ Sống Tháng 5

Suy Niệm Lẽ Sống Tháng 5

 

1.GIUSE TRONG XÓM NHỎ ĐIÊU TÀN

“Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn…”.

Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố linh mục Đạo Minh, dòng thánh Giuse… Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40-50 và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chế vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.

Lời ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu: lao động là vinh quang… dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn một lần mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày, hoặc còng lưng trên chiếc xích lô đạp…

Trong cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh danh là người chông chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của nhưng người câm điếc, bị trói buộc trong nỗi bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe doạ, thử thách…

Thánh Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại Nagiarét, thánh Giuse đã tinh lặng để chiêm ngưỡng mẫu nhiệm nhập thể kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực… Trong sự thinh lặng chiêm niêm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.

Hôm nay là ngày lao động quốc tế. Ngày lao động quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới thợ thuyền tại Âu châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới thợ thuyền đã làm trổi dậy phẩm giá của con người và giá trị của sự cần lao…

Đối với người Kitô, ngày quốc tế lao động này gắn liền với con người của thánh cả Giuse, quan thầy và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện tác động và lời kêu gọi của Chúa trong cuộc sống…

2. ĐỨC MẸ GUADALUPE

Dạo tháng 5/1990, Đức Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho một người thổ dân Mehico tên là Juan Diego, người được Đức Mẹ hiện ra tại Guadalupe…

Juan diego là một người thổ dân nghèo sống với người cậu tại làng Telpetlao thuộc ngoại ô thủ đô Mehico vào khoảng thế kỷ thứ 16. Một buổi sáng thứ bảy nọ, trên đường đi đến thánh đường để dự thánh lễ, Juan Diego bỗng nghe có tiếng hát du dương từ trên một ngọn đồi. Anh tiến lại gần và thấy một thiếu nữ xinh đẹp tự xưng là Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ nói với người thổ dân nghèo như sau: “Ta muốn có một đền thờ được dựng lên tại đây để Ta dùng tình thương, niềm cảm thông, sự trợ giúp và bảo vệ của Ta mà bày tỏ thiên Chúa cho loài người. Con hãy đi gặp vị giám Mục Mehico và nói với ngài rằng Ta sai con đến gặp ngài để bày tỏ ý muốn của Ta. Con hãy tin tưởng rằng Ta sẽ biết ơn con và ân thưởng cho con. Ta sẽ làm cho con được giàu có và tôn vinh con”.

Juan đến gặp vị Giám Mục, nhưng anh buồn bã trở về làng, vì Giám Mục không tin lời của anh Đức Mẹ lại hiện ra cho anh một lần nữa và cũng sai anh mang một sứ điệp như thế đến cho vị Giám Mục. Nhưng lần thứ hai,dù cho anh có van nài khóc lóc, vị Giám mục vẫn một mực không tin. Vị Giám Mục nói với người thổ dân nghèo rằng: “Nếu Đức Mẹ thực sự muốn điều đó, thi xin ngài hãy bày tỏ một dấu lạ”. Và ngài bí mật cho người theo dõi. Lần thứ ba, Đức Mẹ lại hiện ra cho Juan Diego, nhưng Ngài bảo anh: hãy trở lại vào ngày mai và ngài sẽ cho vị Giám Mục một dấu lạ.

Ngày hôm sau, Juan Diegoi không thể đến điểm hẹn với Đức Mẹ được, vì anh phải đi tìm thầy thuốc cho người cậu đang mắc bệnh. Nhưng khi đi qua ngộn đồi, Juan vẫn được Đức Mẹ hiện ra. ngài bảo đảm với anh rằng người cậu của anh sẽ được lành bệnh và thay vì để Juan tiếp tục lên đường đi Mehico để tìm thầy thuốc, Đức Mẹ đã sai anh đến nơi Ngài đã hiện ra cho anh lần đầu tiên. Tại đây, Ngài sẽ cho anh những cánh hoa thật đẹp làm dấu lạ để mang đến cho vị Giám mục… Lúc bấy giờ đang là mùa đông và ngọn đồi nơi Juan được Đức Mẹ hiện ra thường chỉ có những cây cỏ của sa mạc như các loại gai và xương rồng. Thế nhưng, hôm đó, hoa bỗng nở rộ trong sa mạc. Juan hái lấy dâng cho Đức Mẹ. Đức Mẹ sờ đến những cánh hoa và bảo anh lấy chiếc áo choàng để đựng hoa mang đến cho vị Giám Mục…

Khi Juan vừa mở chiếc áo choàng ra để lấy hoa cho vị Giám Mục xem thì lạ thùng thay, hình của Đức Mẹ đã được in trên chiếc áo của anh… tin ở lời Đức Mẹ, vị Giám Mục đã tức tốc lên đường đến làng Đức Mẹ đã hiện ra cho anh. Ngài nhận thấy người cậu của anh đã được lành bệnh. Các cuộc lành bệnh lạ lùng đã diễn ra từ đó… Một đền thánh dâng kính Đức Mẹ đã được xây cất để rồi cuối cùng trở thành vương cung thánh đường Guadalupe như chúng ta vẫn quen gọi.

Trong thánh lễ tôn phong chân phướng cho Juan Diego tại đền thánh Guadalupe ngay buổi chiều Chúa nhật khi vừa đến Mêhicô, Đức Gioan Phaolô II đã kêu gọi người dân Mêhicô hâm nóng lại tinh thần truyền giáo. Truyền gái theo đúng nghĩa là được sai đi để mang sứ điệp đến cho người khác. Cũng giống như tất cả những ai được diễm phúc gặp Đức Mẹ, chân phướng Juan Diego đã được sai đi… Phải vất vả nhiều lần và dĩ nhiên, với sự trợ giúp của Đức Mẹ, Juan Diego mới có thể thuyết phục được vị Giám Mục…

Người Kitô tự bản chất là người được sai đi và sứ điệp của họ chính là sứ điệp của yêu thương… Cùng với những cánh hoa dâng tiến Mẹ trong tháng Năm này, chúng ta được mời gọi để mang những cánh hoa yêu thương đến cho mọi người. Tình thương,sự trợ giúp của Mẹ dành cho chún ta cũng p hải được chúng ta diễn đạt, cao rao qua cuộc sống dạt dào tình mến đối với mọi người.

3. ĐI VỀ ĐÂU?

Tiền tài danh vọng không làm cho con người hạnh phúc… Đó là điều mà người tha thường nói khi bàn về cái chết của cô đào Marilyn Monroe cách đây hơn hai chục năm… Nay, người ta cũng lặp lại điều đó với nữ danh ca Dalida, người Pháp gốc Ai Cập… Dalida đã tự vận vào hôm 3/5/1987 tại nhà riêng của cô ở Montmartre, Paris, lúc cô được 54 tuổi.

Sinh năm 1933 tại Le Caire với tên thật là Yolande Gigliotti, Dalida đã trở nên một ca sĩ nổi tiếng và được hâm mộ trên khắp thế giới, kể cả ở Việt Nam, nhờ giọng ca đầy truyền cảm của cô. Những người thuộc thế hệ 50 và 60 không thể quên những bài “Bambino”, “Gigi Pamorose”… do cô trình diễn. Danh vọng đã không đủ để thoả mãn cô. Ngày 27/2/1967 cô đã thử một lần tự tử, rồi được cứu sống.

Tự tử cũng là một thể hiện nỗi khao khát khốn cùng trong lòng người: đó là khao khát hạnh phúc. Khi cuộc đời này không còn là một đáp trả cho nỗi khao khát ấy, nhiều người đã tự mình tìm đến cái chết như một giải thoát.

Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội ngày nay phải chăng không là khủng hoảng về ý nghĩa của cuộc sống. Con người sinh ra để làm gì? Con người sẽ đi về đâu? Sau cái chết, những gì đang thực sự chờ đợi con người… Đó là những câu hỏi lớn mà con người ngày nay khi đứng trước những mâu thuẫn trong cuộc sống, không ngừng đặt ra cho mình.

Con người bởi đâu mà ra, con người sẽ đi về đâu? Đâu là ý nghĩa và giá trị của cuộc sống? Đó là những câu hỏi mà chúng ta không ngừng tự đặt ra cho chính mình.

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, bởi vì, nhờ đức tín, chúng ta tìm được ánh sáng cho những câu hỏi ây.

Trước ngưỡng cửa của năm hai ngàn, nhân loại đang mỗi lúc phải đương đầu với những thách đố lớn của cuộc sống. Người Kitô được trang bị bởi đức tin, đang nắm giữ một vai trò quan trọng trong giai đoạn này. Ánh sáng đức tin, cần phải được chiếu sáng trong cuộc sống của người Kitô để nhờ đó, những người chung quanh cũng tìm ra được ý nghĩa và giá trị cũng như hướng đi đích thực của cuộc sống.

4. XIN CHÚA THA THỨ CHO TÔI

Sau thời cách mạng Pháp, trước cửa một nhà thờ bại Balê, người ta thường thấy một người hành khất với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn thấy trên vòng cổ của người ăn xin một cây thánh giá nhỏ bằng vàng.

Người khách quen thuộc nhất của kẻ xấu số này là một vị linh mục trẻ. Vị linh mục thường đến dâng thánh lễ tại nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, ông không quên hỏi han và giúp đỡ người hành khất.

Ngày nọ, vị linh mục trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa nhà thờ nữa. Lần nò hỏi thăm, vị linh mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị linh mục,ông ta đã kể lại cuộc đời của mình như sau: “Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồng chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Quân cách mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy nhất là thoát khỏi”.

Nghe đến đây, vị linh mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu chuyện của người hành khất: “Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát máu… Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp các ngã đường để quên tội ác của mình. Tôi vân còn giữ tấm ảnh của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây thánh giá tôi đang treo ở đầu giường là của người chồng, còn chiếc thánh giá bằng vàng tôi đang đeo trên cổ đây là của người vợ… Xin Chúa thư thứ cho tôi”.

Vừa nghe xong nhưng dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị linh mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội, ông đã nói như sau: “tôi chính là người con trai còn sống sót của gia đình. Đại diện cho gia đình và với tư cách là một linh mục,tôi tha thứ cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần…”.

Câu chuyện thư thứ trên đây là một trong những mẩu chuyện đã và đang xảy ra ở mọi thời đại và mọi nơi. Giữa sa mạc cằn cỗi của lòng người, Thiên Chúa vẫn còn cho mọc lên những hoa trái của yêu thương tha thứ. Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú cao sang nhất của lòng người…

Sự hiện diện của bà Muzeyen Agca tại Roma dạo tháng 2/1987 nhắc lại cho chúng ta một biến cố vô cùng đau thương, nhưng cũng gợi lại một nghĩa cử vô cùng cao quí của vị Cha chung. Ngày 13/5/1981, giữa lúc hàng ngàn người đang chen chúc tại công trường thánh Phêrô để chờ đón Đức Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên từ đám đông đã làm cho mọi người như đứng tim. Đức Thánh Cha đã gục ngã trên chiếc xe jeep mui trần, máu mẹ vọt lên tung toé. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị Giáo Hoàng bị mưu sát.

Ali Agca, thủ phạm chính của vụ mưu sát đã bị bắt giữ ngay sau đó. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này đã bị giam giữ tại nhà tù Rebibbia ở Roma. Biến cố đẫm máu trên đây đã ghi đậm sự hận thù đang sôi sục trong lòng người… Nhưng thế giới không phải chỉ được nung nấu bằng lò lửa của hận thù. Thiên Chúa đã tạo dựng con người để yêu mến và tha thứ…

Năm 1984, một biến cố khác đã làm chấn động dư luận thế giới: Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đến nhà giam Rebibbia để nói chuyện với Ali Agca và tha thứ cho anh. Không ai biết hai bên đã trao đổi những gì, nhưng ai cũng cảm động trước cảnh tượng kẻ sát nhân và người bị mưu sát đã bắt tay nhau và trao cho nhau ánh mắt của tha thứ, của hoà giải…

5. NHÀ THỜ CHO NGƯỜI DA MÀU

Trong quyển tự thuật, Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách thống trị của người Anh, đã kể lại rằng: Trong những ngày còn làm sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc Kinh Thánh và vô cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám mối phúc thật đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.

Mahatma Gandhi xác tìn rằng Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và đón nhận một vài lời chỉ dẫn, ông đã thất vọng: Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng chặn ông lại và nói với ông rằng nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu.

Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa.

Câu chuyện trên đây của Mahatma Gandhi đáng cho chúng ta suy nghĩ: vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có thể là một chướng ngại vật ngăn cản nhiều người muốn tìm đến với Giáo Hội. Một lời nói, một cử chỉ, một cách sống, nếu đi ngược lại với tinh thần của Tin Mưng, đều xó thể là một cách xua đuổi người khác ra khỏi nhà thờ.

Không ai là một hòn đảo. Chân lý này đúng cho những tương quan giữa người với người mà còn có giá trị hơn nữa trong tương quan của niềm tin. Không có một hành động nào của người Kitô hữu mà không ảnh hưởng đến người khác. Trong mầu nhiệm của sự thông hiệp, chúng ta biết rằng tất cả mọi chi thể của Đức Kitô đều liên kết khắng hít với nhau đến độ sức mạnh của người này là nơi nương tựa cho người khác, sự yếu đuối và tội lỗi của người này có thể làm tổn thương người khác… Trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô, tất cả mọi chi thể đều liên đới với nhau, tất cả mọi người đều có trách nhiệm đối với nhau…

Không ai là một hòn đảo. Chân lý này cũng đúng cho tương quan của người tín hữu đối với người ngoài Giáo Hội. Mỗi người tín hữu đều phải là trung gian nhờ đó con người tìm đến với Giáo Hội. Nói cho cùng, người tín hữu không sống cho mình mà sống cho tha nhân. thật thế, có lẽ không ai trong chúng ta có thể vào thiên đàng nếu chúng ta chưa giúp cho một người nào đó cùng vào thiên đàng với chúng ta. Đó chính là luận lý của Tin Mừng: Khi mất đi bản thân vì tha nhân, chúng ta mới tìm gặp lại chính mình.

6. KHÁC BIỆT BIỆT GIỮA NGÀY VÀ ĐÊM

Một vị đạo sĩ Ấn giáo nỏ hỏi các đệ tử của ông như su: “Làm thế nào để biết được đêm đã tàn và ngày bắt đầu?”.

Một người đệ tử trả lời như sau: “Khi ta trông thấy một con thú từ đằng xa và ta có thể nói: nó là con bò hay con ngựa”.

Câu trả lời trên đây đã không làm cho nhà đạo sĩ ưng ý chút nào…

Người đệ tử thứ hai mới lên tiếng nói: “Khi ta thấy một cây lớn từ đằng xa và ta có thể nói: Nó là cây xoài hay cây mít”.

Vị đạo sĩ cũng lắc đầu không đồng ý. Khi các đệ tử nhao nhao muốn biết câu giải đáp, ông mới ôn tồn nói như sau: “Khi ta nhìn vào gương mặt của bất cứ người nào và nhận ra người anh em của ta trong người đó thì đó là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu. Nếu ta không phân biệt được như thế, thì cho dù đêm có tàn, ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì thay đổi.

Ngày 25/12, lễ thần Mặt trời của dân ngoại,đã được Giáo Hội chọn làm ngày sinh của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quả thực là mặt trời công chính. Ngài xuất hiện để báo hiệu đêm đã tàn và ngày mới bắt đầu.

Nhân loại đã chìm ngập trong đêm tối của tội lỗi, đêm tối của trốn chạy khỏi Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau giữa người với người. Chúa Giêsu đã đến để xoá tan đêm tối ây và khai mở ngày mới trong đó người nhận ra người, người trở về với Thiên Chúa.

Quả thực, chỉ trong Đức Giêsu Kitô, mầu nhiệm con người mới được sáng tỏ. Trong đêm tối âm u của khước từ Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau, con người đã không biết mình là ai,mình sẽ đi về đâu. Trong ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô, con người nhận dạng được chính mình cũng như nhìn thấy người anh em của mình.

Nhận ra người anh em nơi một người nào đó chính là nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi mọi người cũng như phẩm giá vô cùng cao quí của người đó.

Nhận ra người anh em nơi một người nào đó là nhìn thấy niềm vui, nỗi khổ, sự bất hạnh và ngay cả lỗi lầm của người đó như của chính mình.

Nhận ra người anh em nơi một người nào đó là sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi người đó xúc phạm đến ta và không muốn nhìn mặt ta.

Nhận ra người anh em nơi một người nào đó cũng có nghĩa là không thất vọng về khả năng hướng thiện của người đó.

Nhận ra người anh em nơi một người nào đó cũng có nghĩa là muốn nói với người đó rằng, cách này hay cách khác, ta cần người đó để được sống xứng với ơn gọi làm người hơn…

7. TRUYỀN GIÁO

Một buổi tối nọi, viên sĩ quan trẻ tuổi người Pháp tên là Charles de Foucauld say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm của anh ở Maroc. Người chăm chú theo dõi câu chuyện của anh nhất là cô cháu bé chưa tròn 10 tuổi. Khi anh vừa chấm dứt thì cô bé đã bất thần đặt một câu hỏi như sau: “Thưa cậy, cháu đã thấy cậu làm được nhiều việc vĩ đại… Thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”.

Câu hỏi ấy như một luồng điện giật khiến anh trở thành bất động. Từ bao lâu nay, chưa có người nào đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế. “Anh đã làm gì cho Chúa Giêsu chưa?”. Charles de Foucauld lục soát trong lương tâm của mình để chỉ thấy một lỗ hỏng không đáy. Anh đã phí phạm tất cả thời giờ của anh cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những danh vọng phù phiếm… Mắt anh bỗng mở ra để thấy được nỗi khốn khổ nghè hèn của mình.

Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một linh mục. Anh vào dòng khổ tu, rồi xin đến Nagiarét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu.

ngày nọ, giữa lúc đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh, có tiếng than van rên rỉ của một người Hồi giáo. Charles de Foucauld nghĩ đến gương bác ái của Chúa Giêsu: anh có thể giam mình cầu nguyện một mình giữa lúc những người anh em của anh đang rên rỉ trong hấp hối, trong thất vọng sao?

Nghĩ thế, anh bèn quyết định đến sống giữa họ, trở thành bạn hữu của họ, nhất là những người cô đơn, lạc lỏng, nghèo hèn nhất trong xã hội. Những năm cuối cùng, Charles de Fuocauld sống giữa sa mạc Sahara, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người dân nghèo. Charles de Foucauld đã chia sẻ với họ đến giọt máu cuối cùng của anh: ngày đầu tháng 12/1916, anh đã bị thảm sát giữa lúc đang cầu nguyện… Ngày nay, các tiểu đệ và tiểu muội Chúa Giêsu tiếp tục lý tưởng sống của anh: họ lao động và sống giữa những người nghèo hèn nhất trong xã hội… Tất cả cuộc sống và sự âm thầm hiện diện của họ là một cố gắng làm một cái gì cho Chúa.

Có những nhà truyền giáo rời bỏ quê hương để đi đế những nơi hoàn toàn xa lạ như thánh Phanxicô Xaviê. Nhưng cũng có những nhà truyền giáo dâng cả cuộc đời hy sinh cầu nguyện và đau khổ của mình như thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Có những nhà truyền giáo hùng hồn rao giảng như các tông đồ, nhưng cũng có những nhà truyền giáo âm thầm hiện diện và chia sẻ với những người nghèo khổ như Charles de Foucauld.

Âm thầm hiện diện, nhưng vẫn có thể chiếu sáng niềm tin yêu hy vọng: đó là mẫu người truyền giáo mà Giáo Hội tại Việt Nam đang cần hơn bao giờ hết. Những cuộc sống tử tế, hy sinh phục vụ, quên mình… vẫn là những lời rao giảng hùng hồn hơn bao giờ hết.

8.CHỮ THẬP ĐỎ

Buổi sáng ngày 24/6/1859, Henri Dunant, một thương gia trẻ tuổi người Thuỵ Sĩ, thức giấc với nhiều bận tâm. Từ mấy ngày nay, anh đang trọ tại lột lữ quán nghèo thuộc miền Castiglione delle Stiviere bên Italia. Anh đến Italia với một công tác rất táo bạo, đó là gặp cho kỳ được hoàng đến Napoleon đệ tam của nước Pháp để xin cấp cho anh giấy phép được thiết lập một số nhà máy xay lúa tại Algerie, lúc bấy giờ đang là thuộc địa của Pháp…

Từ trong quán trọ nhìn ra, anh thấy từng đoàn binh sĩ Pháp di chuyển về cánh đồng Solferino… Và những gì phải xảy ra đã xảy ra: 300 ngàn con người từ hai phía đã giáp chiến. Tiếng súng nổ, tiếng người la hét giãy giụa. Khi màn đêm xuống, tiếng súng thưa dần, người ta chỉ còn nghè thấy tiếng rên la than khóc của các thương binh từ hai phía… Giờ phút này, Henri Dunant không còn nghĩ gì đến dự án thiết lập các nhà máy xay lúa tại Algerie nữa. Thay vào đó, nỗi oán ghét chiến tranh và sự cảm thông với các thương binh mỗi lúc một xâm chiếm tâm hồn anh, nhất là khi người ta bắt đầu di chuyển các thương binh vào các làng mạc…

Một người lính Pháp vừa lê lết vừa xin nước uống. Nguyên một bàn chân của anh đã bị cắt đi khỏi thân thể. Duanant dìu anh vào quán trọ. Cùng với các y sĩ của các phe đang tham chiến, Henri Dunant đã động viên tất cả dân làng để mang thực phẩm và thuốc men đến cho các thương binh, bất kể họ thuộc bên nào.

Trong những ngày ấy, thay cho dự án kinh doanh, Henri Dunant đã dành thời giờ để viết lại hồi ký về trận Solferino. Anh mô tả lại tất cả nhưng gì anh đã chứng kiến và kêu gọi tất cả những người thiện chí trên thế giới hãy giúp anh để chấm dứt thảm cảnh ấy. Không mấy chốc, cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được gởi đến các chính phủ trên thế giới. Ngay tức khắc, một tổ chức nhân đạo tại Génève đã thoả thuận trợ giúp cho công tác của Dunant. Anh đi khắp các thủ đô Âu châu để thuyết phục các nhà cầm quyền ký vào một qui ước nhìn nhận quyền bất khả xâm phạm của các thương binh, các y tá và tất cả những ai phục vụ trong ngành quân y…

Ngày 26/10/1963, đại diện của 16 nước đã gặp nhau tại Génève. Tổ chức do Henri Dunant khai sinh được chính thức chào đời ngày hôm đó. Người ta gọi tổ chức này là hội Chữ Thập Đỏ, do biểu tượng của một chữ thập đỏ in trên nền trắng… Dấu hiệu này đã được treo trên các lều, các nhà cửa của những bệnh viện thuộc về phong trào này… Đó là món quà lớn nhất mà Henri Dunant đã tặng cho nhân loại.

Trong tập hồi ký trận Solferino, Henri Dunant đã ghi lại như sau: Có nhiều binh sĩ Áo dưới quyền chỉ huy của hoàng đế Francois Joseph bị bắt làm tù binh. Henri Dunant đã săn sóc họ tận tình. Thấy thế, một bà cụ già trong làng đã phản đối vì cho rằng người Áo là kẻ thù. Henri Dunant đã nói với bà cụ già như sau: “Trong sự đau khổ, không còn khác biệt giữa bạn và thù nữa… Tất cả chúng ta đều là anh em với nhau”.

Nhìn mọi người như anh em của mình,một cái nhìn như thế hẳn phải xuất phát từ một niềm tin rất sâu sắc…

Năm 1901, lần đầu tiên, giải thưởng Nobel hoà bình đã được trao tặng. VÀ người được danh dự ấy chính là vị sáng lập ra hội Chữ Thập Đỏ. Mười năm sau, con người đã trao tặng cho thế giới một món quà cao quí như thế đã qua đời trong một bệnh viện dành cho những người hành khất nghèo nàn bên Thuỵ Sĩ. Gia tài của ông để lại là vài cuốn sách, năm ba lá thư và một di chúc thiêng liêng như sau: “Hoặc tôi là một môn đệ của Đức Kitô giống như các tín hữu của những thế kỷ đầu hoặc tôi không là gì hết”.

Đặc điểm của các tín hữu sơ khai và cũng là lý tưởng của Henri Dunant chính là lòng mến, lòng mến đã khiến họ nhận ra mọi người như là anh em con cùng một Cha trên trời… Mỗi người Kitô chúng ta cũng có thể lặp lại lời di chúc của vị sáng lập hội Chữ Thập Đỏ: “Hoặc tôi tôn trọng và yêu thương tha nhân hoặc tôi không là gì hết”.

9. HÒN ĐÁ NÉM ĐI

Văn hào Nga Leon Tolstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.

Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dủng nó để ném trả lại ngươi”.

Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.

Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kè đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.

Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà Kitô giáo đã cống hiến cho con người.

Trao ban tiền củ, trao ban thì giờ, trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Tha thứ là tuyệt đỉnh của yêu thương bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của mình. Của lễ hy sinh trên thập giá của Chúa Giêsu đã nên trọn khi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng lầm không biết việc chúng làm”.

Tha thứ là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ không ngừng…

tha thứ là nét cao đẹp nhất của lòng người, bởi vì càng tha thứ, con người càng nên giống Thiên Chúa.

10. BÀN TAY PHẢI CỦA CHÚA GIÊSU

Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.

Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chánh xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.

Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu, người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ như sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.

Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quì dưới chân linh mục cũng bên dưới cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa”.

Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân,thì ông bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy như sau: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi”.

Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ…

Kinh Thánh thuật lại rằng trong cuộc hành trình tiến về Đất Hứa, khi đi qua giữa sa mạc, dân Israel đã bị rắn cắn. Maisen đã sai đúc một con rắn đồng và treo lên một ngọn cay để tất cả những ai bị rắn cắn, nhìn vào con rắn đồng ấy đều được chữa lành…

Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của ngài.

Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi.

Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa.

Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thây được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm mến được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được hấn khởi, tin yêu hơn…

Nhìn lên thập giá Chúa để cảm mến được ơn tha thứ của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm mến được ơn tha thứ của Chúa…

11. CƠN THỊNH NỘ CỦA CÁC THÁNH

Trong tác phẩm có tựa đề “Quyển Phúc Âm thứ 5”, tác giả người Ý là ông Pomilio có tưởng tượng một câu chuyện như sau: Ngày kia, các thánh trên thiên đàng không còn chịu đựng nỗi những xúc phạm của con người đối với Thiên Chúa nữa, cho nên các ngài mới họp công nghị để tìm cách chặn đứng tội lỗi của nhân loại…

Sau không biết bao nhiêu buổi họp, cuối cùng các thánh mới đồng biểu quyết rằng việc Con Thiên Chúa chịu chết trên thập giá vẫn chưa đủ để cứu rỗi con người. Do đó, cần phải dùng đến sức mạnh may ra mới trừng trị và thuyết phục được loài người.

Các ngài họp lại thành một đạo binh hùng mạnh và xâm nhập vào trái đất. Chỉ trong nháy mắt, đạo binh các thánh đã chinh phục được thế giới. Các ngài giao việc cai trị trái đất cho một số người công chính còn sót lại giữa loài người. Còn tất cả những kẻ gian ác, tội lỗi, các ngài tập trung lại trong một thung lũng lớn. Tại đây, các ngài dựng lên những dàn hoả thiêu vĩ đại để tiêu diệt tất cả những người tội lỗi. Các ngài tin chắc rằng sau cuộc thanh lọc này, dòng giống con người trên mặt đất sẽ chỉ có những người công chính…

Khi mọi sự đã sẵn sàng để tiến hành cuộc tiêu diệt, thì giữa đám người tội lỗi, các thánh bỗng thấy có một người đang vác thập giá. Hắn đang ra hiệu cho nhưng người khác đến giúp đỡ hắn… Nhìn thấy cảnh tượng ấy, các thánh càng bực tức hơn nữa. Tại sao một người tội lỗi lại bị xử theo hình p[hạt chỉ được dành riêng cho Con Thiên Chúa mà thôi? Nghĩ như thế, cho nên các thánh mới triệu kẻ vác thập giá để, trói chân tay hắn lại và giải đến trước mặt thánh Phêrô để xét xử.

Vừa thoáng nhìn qua kẻ vác thập giá, vị thủ lãnh các tông đồ đã nhận ra ngay Thầy mình. Các thánh ngỡ ngàng không ít, khi được thánh Phêrô tiết lộ rằng Con Thiên Chúa đang lẫn lộn giữa những người tội lỗi. Các ngài mới nhớ lại lời của Ngài: “Con Người không đến để cứu thoát những người công chính mà chính là những người tội lỗi”. Chúa Giêsu cũng nói với các thánh rằng Ngài đã quyết định chết một lần nữa cho các tội nhân, bởi vì trên trần gian, không có một người nào có thể cứu thoát kẻ có tội khỏi cơn thịnh nộ của các thánh.

Chúng ta dễ rơi vào hai thái độ đối nghịch nhau: thái độ của những người biệt phái và thái độ của Giuđa, kẻ bán nộp Chúa.

Thái độ của những người biệt phái được Chúa Giêsu phát hoạ qua hình ảnh của một người tự cao tự đại vào đền thờ cầu nguyện. Người này kể ra bao nhiêu công trạng của mình và nhìn một cách khinh bỉ về người thu thuế đang nép mình ở phía cuối đền thờ. Thái độ ấy tiêu biểu cho chính cái nhìn mà đôi khi chúng ta cũng có đối với người khác. Chúng ta hãnh diện về đời sống đạo đức của chúng ta và kết án những yếu hèn, thiếu sót của những người xung quanh…

Đối nghịch với thái độ kiêu ngạo của người biệt phái là thái độ thất vọng của Giuđa. Sau khi đã bán nộp Chúa, Giuđa mới nhận ra lỗi lầm của mình. Ông không còn tin tưởng ở lòng nhân gừ của một Thiên Chúa có thể tha thứ tất cả tội lỗi của ông và có thể mang lại cho cơ may để sống tốt đẹp hơn.

Tựu trung, cả hai thái độ đều có chung một mẫu số: đó là đóng khung trong chính bản thân để khước từ mọi ân sủng của Chúa.

Qua cuộc sống của mình, chúa Giêsu mời gọi chúng ta đặt tất cả tin tưởng, phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa. Dù tội lỗi chúng ta có ngập tràn, tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn có sức xoá sạch tất cả. Tình yêu của Ngài mạnh hơn hoả ngục và sự chết. Qua cách cư xử của Chúa Giêsu đối với tội nhân, chúng ta cũng được mời gọi để nên trọn lành như Cha chúng ta trên trời, đó là luôn biết tha thứ và cảm thông đối với những bất toàn, yếu đuối và tội lỗi của con người…

12. DANH DỰ CHO AI?

Văn sĩ Pháp Alexandre Piron qua đời năm 1773, thường có thói quen đi dạo trong khu rừng Boulogne giữa thủ đô Paris. Một ngày nọ, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa vào một bức tường.

Chỉ một lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì trong đám đông những người đang đi dạo trong khu rừng, một vài người đến gần ông ngã nón chào. Cũng có một vài người bái cả gối nữa. Nhà văn mỉm cười đáp lễ cảm tình mà khác qua lại dành cho ông. Ông không ngờ rằng ông được nhiều người mộ mến đến như thế. Ông mong sao một số bạn bè trong văn giới chứng kiến được cảnh tượng này để thấy được vinh quang mà ông đã đạt được…

Nhà văn đang say với bã vinh hoa thì chợt trong đám người đang bái chào ông, một bà lão để lộ một thái độ khác thường. Cũng giống như mọi người khác, bà lão cúi chào, rồi tiến đến gần ghế đá. Bà thì thầm nói trong miệng mà nha văn không hiểu được, rồi ngước mắt nhìn lên cao. Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng đưa mắt nhìn lên cao ở phía trên tường. Lúc bấy giờ ông mới khám phá ra rằng trên đầu ông có một tượng thánh giá… Thì ra, những người đi dạo trong khu rừng Boulogne này dừng lại không phải để tỏ lòng mộ mến đối với ông, mà chính là tỏ lòng cung kính đối với Chúa Giêsu trên thập giá.

Hổ thẹn vì sự khám phá ấy, Alexandre Piron đứng dậy bỏ đi nơi khác.

Sở dĩ Chúa Giêsu đã có thái độ gay gắt với những người biệt phái giả hình, là bởi vì họ muốn tiếm đoạt chính vinh dự của Thiên Chúa. Họ cũng giống như văn sĩ Alexander Piron trong câu chuyện trên đây: người ta đến bái chào Chúa Giêsu trên thập giá, nhưng ông lại muốn dành cho mình vinh dự ây. Những người biệt phái giả hình cũng giống như con lừa mà Chúa Giêsu dùng để cỡi vào thành Giêrusalem. Giữa những tiếng reo hò dân chúng dành cho Chúa Giêsu, con lừa cứ nghĩ rằng nó là một anh hùng oai phong lẫm liệt…

Khao khát danh vọng, quyền bính là đam mê chung của mọi người. Ai cũng thích xuất hiện trước công chúng, ai cũng thích được người đời ca tụng, ai cũng thích được phục vụ. Một cách nào đó, người tham vọng không những dùng người khác như bàn đạp, mà còn tước đoạt chính vinh quang của Chúa.

Chúa Giêsu là con người đã sống trọn vẹn cho tha nhân và do đó cũng qui mọi vinh dự về cho Thiên Chúa. thánh Phaolô nói với chúng ta rằng: là Thiên Chúa, ngài đã không đòi cho được đồng hàng với thiên Chúa, nhưng đã huỷ bỏ mình đi để mặc lấy thân phận con người và vâng phục cho đến chết.

Chúa Giêsu đã vạch ra cho chúng ta con đường đích thực để sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là sống cho Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người sống cho Thiên Chúa, thuộc về thiên Chúa trong tất cả mọi sự, con người mới đạt được chính cùng đích của mình. Sống cho Thiên Chúa là luôn tìm kiếm thánh ý của Ngài, là hoạt động cho vinh quang của Ngài, là trở thành khí cụ trong bàn tay của Ngài…

13. NGÀY CỦA MẸ

Ngày Chúa nhật thứ hai trong tháng Năm, tại nhiều nước trên thế giới, được gọi là ngày của Mẹ, ngày dành riêng để tỏ lòng báo hiếu đối với mẹ…

Sáng kiến dành ngày Chúa nhật thứ hai của tháng Năm làm ngày của mẹ được gán cho một thiếu nữ của người Hoa Kỳ tên là Anna M.Jarvis qua đời khoảng năm 1948. Mẹ của cô qua đời tháng Năm năm 1905. Trong những năm kế tiếp, cô thường tổ chức giỗ mẹ một cách trọng thể như mời bạn bè đến cầu nguyện tại gia đình. Cô viết thư gởi tới các nhân vật quan trọng trong nước Mỹ để xin lập một ngày tưởng nhớ các bà mẹ. Tiểu bang nơi cô đang sống đã chấp nhận đề nghị năm 1913. Và ngày 10/5 ấy, quốc hội Hoa Kỳ cũng thông qua đề nghị nhận ngày Chúa nhật thứ hai trong tháng Năm như một ngày để ghi ơn các bà mẹ. Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ đã công bố quyết định này ngày 9/5/1914. Tục lệ này đã lan rộng sang nhiều quốc gia trên thế giới… Trong ngày nhớ mẹ, người con thường cài trên áo một bông hoa cẩm chướng màu trắng nếu mẹ đã quá cố và màu hồng dành cho những ai còn mẹ.

Trong các tước hiệu Giáo Hội dùng để gọi Đức Maria, có lẽ xứng hợp với tâm tình con người hơn cả vẫn là tước hiệu Mẹ. Chúng ta có thể gọi Đức Maria là Mẹ với tất cả tâm tình trìu mến như khi chúng ta gọi người mẹ của chúng ta. Do lời trăn trối của chính Chúa Giêsu con Mẹ, Mẹ đã trở thành Mẹ của giáo Hội. Qua muôn thế hệ, Mẹ không ngừng cưu mang, sinh ra và dưỡng dục các tín hữu trong đức tin.

Niềm hạnh phúc của bất cứ người mẹ nào vẫn là thấy con mình được nên người. Mẹ Maria chăm chú theo dõi và lo lắng cho từng người chúng ta. Niềm vui của Mẹ chính là thấy mỗi người chúng ta được lớn lên theo hình ảnh của Chúa Giêsu, Con Mẹ…

Chúng ta mang đến cho Mẹ những bó hoa trong suốt thán Năm, tháng mười và trong từng lời kinh dâng lên Mẹ. Nhưng có lẽ Mẹ sẽ sung sướng hơn mỗi lần nhìn thấy sự trưởng thành nơi chúng ta. Mỗi lần chúng ta lớn lên trong ân phúc, trong bác ái yêu thương, trong hy vọng tin yêu: đó là những bó hoa tốt đẹp nhất mà chúng ta dâng lên Mẹ…

14. HƯƠNG VỊ CỦA KHÓI

Để đả phá tính ích kỷ, người Á Rập thường kể câu chuyện như sau:

Tại một khu phố nọ, có không biết bao nhiêu cửa hàng ăn uống mọc lên. Hương vị bốc lên từ các cửa hàng này thu hút người giàu lẫn kẻ nghèo. Những người giàu đến đây để thưởng thức những của ngon vật lạ, còn những người nghèo thì chỉ mong ăn được chút cơm thừa canh cạn hay cùng lắm là chỉ để hít thở được hương vị thơm ngon bốc lên từ các nhà bếp…

Một hôm, có một người nghèo mon men đến một cửa hàng. Trên tay anh cầm một ổ bánh mì. Anh người nghèo này có ý nghĩ độc đáo: thay vì chờ chực để hưởng phần ăn thừa của thực khách, anh bèn leo lên mái nhà, rồi ngồi cạnh ống khói của nhà bếp. Anh vừa nhai bánh mì vừa hít thở làn khói bốc ra từ nhà bếp. Anh nhai ngấu nghiến ổ bánh mì mà tưởng tượng như mình đang thưởng thức những của ngon được dọn trên bàn thực khách.

Nhưng không nay cho anh, vì hôm đó người chủ nhà hàng gặp nhiều rắc rối trong công việc làm ăn cho nên không có được bộ mặt vui tươi cho mấy. Thế là ông sai những người hầu bàn lôi cổ người ăn xin xuống khỏi mái nhà và yêu cầu trả tiền. Ông lý luận với người ăn xin như sau: “Khóc bốc ra từ nhà bếp của ta không phải là khói chùa, nhà ngươi đã thưởng thức làn khói đầy hương vị đó, yêu cầu nhà ngươi trả tiền cho ta”.

Người ăn xin không chịu trả tiền. Nội vụ đã được đem ra trước toà án. Quan đầu tỉnh phải nhức đầu vì vụ án này. Ông cho triệu tập các bậc thức giả trong toàn tỉnh lại để giúp ông giải quyết vụ án. Những người này đưa ra hai ý kiến xem ra đều có lý cả: một bên nói rằng khói bốc ra từ cửa hàng, do đó nó là sở hữu của ông chủ cửa hàng. Những người khác thì cho rằng khói cũng như không khí là của mọi người, thành ra người ăn xin có quyền hưởng mà không phải trả đồng xu nào.

Sau khi đã bàn bạc và cân nhắc, quan đầu tỉnh mới đưa ra phán quyết như sau: “Người nghèo đã hưởng khói mà không đụng đến thức ăn, cho nên anh ta hãy lấy một đồng bạc, ra giữa công viên, gõ đồng bạc vào ghế đá. Âm thanh của đồng bạc sẽ lan ra. Người chủ cửa hàng muốn đòi tiền của khói, ông hãy lắng nghe âm thanh ấy”.

Người kể câu chuyện ngụ ngôn trên đây dó lẽ muốn nói với chúng ta rằng sự ích kỷ không mang lại cho chúng ta một lợi lộc nào.

Nhưng sự ích kỷ không bao giờ mang tính chất trung lập. Nghĩa là khi tôi khép kín tâm hồn, khi tôi chỉ biết nghĩ đến mình, không những tôi làm cho người khác bớt hạnh phúc, mà chính tôi cũng chết đi một phần trong tôi. Tình liên đới không phải là một thứ xa xí phẩm được thêm vào tương quan giữa người với người hoạc như một thứ tô điểm phụ thuộc cho nhân cách của tôi, mà là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi làm người. Tôi càng nên người hơn khi tôi sống cho ta nhân. Tôi cảng trở nên phong phú hơn khi tôi trao ban…

Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta ơn gọi đích thực của con người: đó là sống trọn vẹn cho tha nhân. “Này là Người, này là con người với đầy đủ tính người”. Đó phải là ý nghĩa của lời tuyên bố của Philatô khi ông cho trình diện trước đám đông một Chúa Giêsu với tấm thân không còn hình tượng của con người nữa và nói: “Này là Người…”. Con người chỉ thể hiện được trọn vẹn tính người khi con người tiêu hao hoàn toàn vì người khác, khi con người sống hoàn toàn cho người khác…

Đó là định luật của tình yêu mà Chúa Giêsu đã mạc khai cho chúng ta: ai đi tìm mạng sống mình, người đó sẽ mất. Ai mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại.

15. TA KHÔNG KẾT ÁN CON

Tại nhà thờ chánh toà Wurzburg trong miền Bavierc, Tây Đức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng được chạm trổ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Trên những tượng thánh giá, thông thường đôi tay của Chúa Giêsu giang ra và bị đóng đinh vào gỗ giá. Riêng đôi tay của Chúa Giêsu trên tượng thánh giá tại nhà thờ chính toà Wurzburg thì lại khác hẳn: thay vì được giang ra và bị đóng vào gỗ giá, hai cánh tay của Chúa lại khoanh trước trái tim như thể đang ôm vào lòng một người nào đó.

Người dân địa phương truyền tụng rằng trong cuộc chiến tranh tôn giáo giữa Tin Lành và Công Giáo vào giữa thế kỷ 17, một người lính chống Công Giáo đã vào nhà thờ này. Nhìn thấy trên đầu Chúa có một triều thiên bằng vàng, anh sinh lòng tham, bắt thang leo lên để đánh cáp. Khi anh vừa đưa tay tháo gỡ triều thiên thì đôi cánh tay đang bị đóng đinh của Chúa Giêsu bỗng được tháo gỡ. Chúa Giêsu giang tay ôm trọn lấy anh vào lòng, với tất cả trìu mến. Người lính chết lịm trong vòng tay âu yếm của Chúa Giêsu.

Người ta tìm thấy xác của anh dưới chân thánh giá!

Kể từ ngày đó, hai cánh tay của Chúa Giêsu không còn giăng ra và bị đóng vào lỗ đinh nữa, nhưng được khoanh trước trái tim trong tư thế đang ôm chầm lấy một người nào đó.

Du khách nhìn lên thập giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.

“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất trong Kitô giáo. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá: đó là ngôn ngữ qua đó muốn nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Người Con Một của Ngài chết thay cho chúng ta.

Thiên Chúa yêu thương con người: điều đó không có nghĩa là Ngài yêu thương con người một cách trừu tượng, yêu thương con người như một đám đông hay như một con số. Thên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu cá biệt, nghĩa là mỗi người chúng ta đối với Người như thể là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này. Mỗi người là một lịch sử, mỗi người chiếm trọn tình yêu của Chúa.

Thiên Chúa yêu thương tôi, nghĩa là Ngài chỉ muốn điều thiện cho tôi. Điều thiện ấy có thể vượt khỏi suy tính, do lường của tôi. Do đó, cho dẫu có gặp tram nghìn đớn đau, vất vả, chúng ta cũng hãy tin rằng Thiên Chúa đang yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tôi đến độ làm mọi cách để cho mọi sự đều quy về điều thiện hảo cho tôi. Một cơn bệnh, một sự thất bại, một cái chết, một sự mất mát và ngay cả tội lỗi: tất cả đều là những cơ may để Ngài ban cho tôi một ơn phúc cao cả hơn.

16. CÁI HÔN

Hãng thông tấn AFP của Pháp trong bản tin ngày 23/1/1991 đã ghi một mẩu chuyện lạ như sau:

Một phụ nữ Brazil đã lợi dụng cái hôn để cắn và nuốt mất khúc lưỡi của người yêu. Bà cho biết: làm như thế là để trả thù người đàn ông vì đã đánh đập, hành hạ bà.

Cảnh sát tại thành phố Salvador de Bahia, mạn đông bắc Brazil cho biết như sau: Lucia bị người yêu là ông Djalma dos Santos, 47 tuổi, đã đánh đập, hành hạ thậm tệ. Nàng kiên nhẫn chờ đợi cơ hội. Hôm 22/1/1991, ông Djalma đến thăm Lucia để xin lỗi. Cô ta liền nhảy xổ vào người yêu, ôm hôn ông một cách rất tình tứ, không cho ông có thì giờ để giải thích.

Hai người đang hôn nhau, thì đột nhiên, Lucia cắn đứt một phần lưỡi của Djalma và nuốt luôn vào bụng để người ta không thể vá lại khúc lưỡi đã bị mất.

Người đàn ông được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nhưng theo các bác sĩ điều trị, ông ta sẽ không bao giờ có thể nói lại một cách bình thường được, vì đã mất một khúc lưỡi.

Ông Djalma than thở như sau: “Đây là nụ hôn thê thảm nhất trong đời tôi. Đó là nụ hôn của Giuđa”.

Cái hôn có nhiều hình thức và ý nghĩa khác nhau.

Có cái hôn của các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị để nói lên tình hữu nghị, sự hoà giải. Có cái hôn bình an của các tín đồ của một tôn giáo. Có cái hôn dạt dào thương mến giữa cha mẹ và con cái. Có cái hôn nồng cháy dục tình giữa đôi tình nhân hay vợ chồng.

Tựu trung, trong cái hôn nào cũng có hai yếu tố: yếu tố hữu hình là sự tiếp giáp giữa hai thân xác qua môi miệng và yếu tố vô hình mà cái hôn muốn diễn tả như tình liên đới, hữu nghị, sự hoà giải, tình mẫu tử, tình yêu lứa đôi. Cái hôn sẽ trở thành đồng nghĩa với phản bội khi nó tước đoạt khỏi yếu tố vô hình trên đây. Đó là trường hợp cái hôn của người đàn bà Brazil trên đây.

Nhưng điển hình nhất của cái hôn phản bội vẫn là cái hôn mà Giuđa đã dành cho Chúa Giêsu. Điều bỉ ổi nhất trong cái hôn của Giuđa chính là dùng một cử chỉ của tình thân như một dấu hiệu của sự bán nộp.

Cái hôn của Giuđa được lặp lại khi người ta dùng những chiêu bài cao đẹp để che đậy những ý đồ đen tối. Cái hôn của Giuđa được lập lại khi người ta nhân danh nhân nghĩa, nhân danh phục vụ, nhân danh người nghèo để tìm kiếm quyền bính, tư lợi cho mình.

Đối với người tín hữu Kitô, thì cái hôn của Giuđa chính là thái độ sống giả hình mà Chúa Giêsu không ngừng kết án trong Phúc Âm. Đó là điều mà tiên tri Isaia đã cảnh cáo khi ông nói: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, mà lòng trí chúng thì ca Ta”. Nếu cái hôn củ Giuđa là một cử chỉ thân thình ngoài môi miệng, nhưng lòng trí thì lại chất chứa âm mưu thâm độc, thì thái độ sống giả hình của người tín hữu cũng là một cái hôn như thế.

Khi môi miệng sốt sắng cầu kinh, nhưng cuộc sống lại đầy những hành động gian ác ích kỷ, phải chăng đó không là một chiết hôn của Giuđa mà chúng ta dành cho Chúa?

17. ĐI MỘT ĐOẠN ĐƯỜNG VỚI CHÚA

Người Ấn độ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Đêm ngày, anh cầu nguyện liên lỉ chỉ mong sao cho ước nguyện của mình thành sự. Quả thực, không bao lâu, Thiên Chúa đã đến với anh dưới hình dạng của một con người đẹp đẽ, uy quyền, trầm tĩnh.

Chúa đề nghị với anh: “Con có thể đi với Ta một quảng đường không?”. người thanh niên cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Chúa và anh đồng hành với nhau như đôi bạn tri âm. Đi một lúc, Chúa dừng lại nói với anh: “Ta khát nước, con có thể đi tìm cho Ta một ít nước không?”.

Người thanh niên hăm hở đi tìm nước. Lòng anh tràn ngập hạnh phúc. Còn gì sung sướng bằng đi tìm nước để mang về cho Chúa… Nhưng anh đi tìm mãi mà khộng thấy nơi nào có nước… Anh đi mãi để rồi cuối cùng dừng lại bên một bờ sông. Anh đang chuẩn bị lấy nước mang về cho Chúa, thì tình cờ một cô gái đẹp xuất hiện bên bờ sông. Cô gái đẹp đến độ người thanh niên không còn thấy cảnh vật xung quanh, cũng như không còn nghĩ đến việc mang nước về cho Chúa.

Anh nấn ná đến làm quen với cô gái. Họ thương nhau, lấy nhau và sinh được nhiều con cái. Không gì đầm ấm, hạnh phúc cho bằng. Nhưng một cơn ôn dịch xảy đến. Người thanh niên đưa vợ con đi đến một nơi khác. Nhưng khi họ đi qua một chiếc cầu, thì thình lình mưa gió thổi đến, nước dâng lên kéo cả vợ con anh theo. Người đàn ông bám vào được một gốc cây lớn. Anh khóc thương cho thân phận bọt bèo trổi nổi của vợ con cũng như chính kiếp cô đơn lạc loài của anh.

giữa lúc đó, Thiên Chúa xuất hiện trước mặt anh: Ngài mỉm cười hỏi anh: “Này con, con có mang nước về cho Ta không? con làm gì để ta phải chờ đợi gần cả tiếng đồng hồ”.

Một người cha nhân từ mòn mỏi đợi trông đứa con hoang trở về: đó là hình ảnh cảm động nhất về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta trong bài dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Từng ngày, người cha ra đầu ngõ để trông đợi. Khi đứa con còn ở đàng xa,ông đã cạy đến giang rộng đôi cánh tay để ôm trọn đứa con vào lòng, không một lời quở trách, không một cử chỉ bất bình… Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Chúng ta tưởng mình đi tìm Ngài, chúng ta tưởng như Ngài ẩn mặt với chúng ta. Nhưng kỳ thực, chính Ngài mới là Đấng đeo đuổi chúng ta, tìm kiếm chúng ta, chờ đợi chúng ta. Chúng ta tưởng mình đang đi đến với Chúa, nhưng kỳ thực chính Ngài đang ở với chúng ta.

18. CÁNH DIỀU

Người Rumani nói về nguồn gốc của trò chơi thả diều bằng mẩu chuyện như sau:

Tại một làng kia, có một người nghèo mà ai cũng gọi là Cob. Cob là một tên gọi không mấy thanh cao trong ngôn ngữ Rumani. Người ta gọi ông bằng tên ấy vì cái miệng sún răng cũng như đôi chân khập khiểng của ông. Con người có dáng vẻ xấu xí ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể làm một người nghèo mà thôi. Không vợ,không con, ông Cob lầm than, vất vả như tất cả những người nghèo khác. đi đến đâu, ông cũng trở thành trò đùa cho mọi người. Vậy mà con người ấy không hề than thân trách phận hoặc tỏ ra giận dữ, buồn phiền mỗi khi bị chọc ghẹo.

Cả đời, ông chỉ có mỗi một băn khoăn: là chưa hề làm một việc thiện cho người khác. Ông yêu người, ông muốn tặng thật nhiều quà cho mọi người. Nhưng ông cảm thấy mình quá nghèo để có thể thực hiện được giấc mơ ấy. Ông thường tự nhủ: “Bệnh tật,đau yếu,khốn khổ, chết chóc, đó là số phận chung của mọi người. Ai không nhỏ lệ thì cũng khóc thầm trong lòng. Nước mắt là cơm bữa của loài ngời. do đó, cần phải làm cho loài người phấn khởi, vui tươi”. Nghĩ thế, ông trình bày lên Chúa ước nguyện như sau: “Xin Chúa cho con có thể mang lại cho những người đau khổ một quà tặng”.

Một quà tặng cho nhân loại đau khổ, nhưng ông Cob vẫn không biết món quà đó phải như thế nào. Trong khi chờ đợi, mỗi lần bị cười chê, mỗi lần bị đem ra làm trò cười, ông vẫn tươi cười với ý nghĩ rằng: “Ít ra mình cũng làm cho người vui”.

Sau một thời gian suy nghĩ,cuối cùng ông Cob mới tìm ra được món quà tặng mà ông sẽ mang lại cho nhân loại đau khổ: đó là một cánh diều bay lơ lửng trên không.

Nghĩ đó là sự linh ứng của Chúa, ông Cob đi nhặt tất cả những gì cần thiết để làm một cánh diều. Ông miệt mài cắt xén, sơn vẽ để hoàn thành được một cánh diều óng ả, sáng chói như một dĩa bay.

Khi cánh diều gặp gió bay cao, cả dân làng kéo nhau ra cánh đồng để nhìn ngắm công trình của ông Cob. Mọi người đưa mắt nhìn lên không trung và quên hẳn những nhọc nhằn của cuộc sống. Đó là quà tặng mà người khốn khổ nhất của ngôi làng đã mang lại cho người đồng lại của mình.

Một tác giả nào đó đã nói: “Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng”. Một trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.

Sự giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt mòng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim,và quả tim đó lẽ ra phải giống nhau, bởi vì người ta không thể cân lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng tiền của, mà ở quả tim được gói ghém trong món quà.

Chúa Giêsu đã nhìn thấy quả tim mà một người đàn bà goá đã gói trọn trong một đồng xu nhỏ dâng cúng đền thờ. Nhân vật Cob trong câu chuyện của người Rumani trên đây đã đặt tất cả con tim của mình vào cánh diều làm vui cho con người.

Một ánh mắt, một nụ cười, một lời nói an ủi, một bày tay nâng đỡ, đó là bao nhiêu quả tim mà con người có thể trao tặng cho nhau. Và đó cũng có thể là những món quà cao quí nhất mà những người xung quanh đang chờ đợi nơi chúng ta.

19. TÔI CHẾT THAY CHO THẦY TÔI

Một tu sĩ Hồi giáo nọ qui tụ được 60 môn sinh. Sau một thời gian giáo huấn họ, ông quyết định như sau: Ta thấy đã đến lúc phải làm một cuộc hành trình mới. Ta không biết những gì sẽ xảy ra cho thầy trò chúng ta. Các ngươi hãy tuân giữ các điều ta đã truyền dạy cho các ngươi. Hãy nhớ điều này: trong bất cứ lúc nào, hễ ta giơ tay lên trời thì các ngươi hãy hô lớn: “Tôi chết thay cho thầy tôi”.

Đám môn sinh nhận thấy không thể chấp nhận được một đề nghị xem ra điên rồ như thế, cho nên 59 người đã bỏ cuộc trở về với nếp sống cũ của họ. Chỉ có một người chấp nhận điều kiện và quyết tâm đi theo thầy mình cho đến cùng. Hai thầy trò lên đường mà không biết đi về đâu. Họ đi mãi cho đến lúc tới một thành phố do một bạo chúa cai trị. Không bao lâu thì họ vào thành phố,ông bạo chúa đã ra lệnh cho các binh lính như sau: “Các ngươi hãy bắt giữ lấy tên du thủ du thực đầu tiên và điệu đến đây cho ta. Ta muốn treo cổ hắm để làm một bài học cho bọn vô lại trong thành phố này”.

Thế là bọn lính đã đến bắt ngươi đệ tử của vị tu sĩ và điệu đến trước mặt bạo chúa. Giữa lúc cuộc hành quyết sắp bắt đầu, thì vị tu sĩ mới xuất hiện giữa đám đông và hô lớn: “Thưa quan lớn, xin hãy giết tôi, vì chính tôi là người đã dụ dỗ người thanh niên này bỏ nhà ra đi để sống kiếp sống lang thang như tôi”. Nói xong, ông giơ tay lên trời.

Vừa thấy cử chỉ ấy của vị thầy, người thanh niên mới gào lên: “Thưa quan lớn, tôi muốn chết thay cho thầy tôi”.

Quan bạo chúa nghe thế, mới hỏi các viên cố vấn của mình như sau: “Họ là ai mà sẵn sàng chết thay cho nhau?. Quan bạo chúa mới cho điệu vị tu sĩ đến trước mặt và yêu cầu giải thích cho cặn kẽ về mối tương quan giữa thầy trò.

Vị tu sĩ Hồi giáo mới bình tĩnh phát biểu như sau: “Thưa quan lớn, chúng tôi có nghe nói rằng bất cứ ai được giết trong thành phố này đều được phúc trường sinh bất tử. Dĩ nhiên, nghe biết như thế, cho nên thầy trò chúng tôi mới hăm hở đến đây để được chết như thế”.

Nghe thế, quan bạo chúa mới mỉm cười, rồi ra lệnh trả tự do cho họ. Người môn sinh chợt hiểu được rằng ai hy sinh mạng sống mình thì sẽ tìm lại được nó.

Cái chết của Đức Kitô trên thập giá là điều vô nghĩa, nếu cái chết đó không là cái chết cho mọi người. Thập giá của Đức Kitô sẽ chỉ là một ô nhục, nếu thập giá đó không là biểu trưng của tình yêu, sự hy sinh.

Bước theo Đức Kitô trong cuộc tử nạn, vác lấy thập giá và đi theo Ngài không là một việc làm nhiệm ý và tuỳ hứng, nhưng là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi Kitô. Con đường của Đức Kitô chính là con đường của tình yêu, của hy sinh hiến thân cho người khác.

20. KẺ ĂN CẮP MỘT Ổ BÁNH MÌ

Người ta thường kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ toạ các phiên toà. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.

Nghe xong lời các buộc của cử toạ cũng như lời biện bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyến như sau: “Luật pháp không dung thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đôla”. Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đôla và trao cho người đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử toạ ông nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quí vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp”. Nói xong ông ra lệnh cho viện biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho lão ông.

Khi chiếc mũ đã được chuyền một vòng toà án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đôla 50 xu.

Trong sứ điệp mùa Chay năm 1991, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta hãy đọc và suy gẫm về bài dụ ngôn người giàu có và Lagiarô.

Mới nghe qua, chúng ta có cảm tưởng người giàu có trong bài dụ ngôn đã không làm điều gian ác nào để đến độ phải bị trầm luân. Chúa Giêsu đã không nói: ông đã trộm cướp, hay biển lận hoặc gian xảo trong việc làm ăn. ngài cũng không kết án việc ông ngày ngày yến tiệc linh đình.

Vậy thì đâu là tội của người phú hộ? Thưa đó là tội dửng dưng trước nỗi khổ của người khác. Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện ngày qua ngày của một người khốn khổ trước cửa nhà ông để cho chúng ta thấy sự đang tâm làm ngơ của người giàu có… Máy chảy, ruột mềm. Trước cảnh khốn khổ của người đồng loại, mà người giàu có ấy vẫn không để lộ một chút xúc động hoặc làm như không nhìn thấy, thì quả thật không gì đáng trách bằng, bởi vì người giàu có đã làm cho trái tim của mình khô cứng.

Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không là một thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội ác. Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy được tội ác của chính ông và của thị dân của ông đối với lão ông ăn cắp bánh mì.

21. ĐÔI CÁNH CON TUẤN MÃ

Hai người bạn thân ngồi bên nhau dưới một bóng cây cổ thụ. Cả hai đều đưa mắt nhìn về cánh đồng trước mặt, nhưng mỗi người một ý nghĩ.

Người có dáng vẻ đầy nghị lực, cái nhìn cương quyết, thốt lên như sau: “Một cảnh vật phẳng lặng và độc điệu như thế này quả thực là nhàm chán. Tôi sẽ rời bỏ ngôi làng nhỏ bé này để làm một vòng du lịch cho biết đó đây biết đây”.

Người bạn khác với dáng điệu mảnh khảnh ít nói, mỉm cười nhìn vào khung cảnh xung quanh rồi nói: “Tôi cũng có một con tuấn mã. Từ bao lâu nay, tôi đã đi lại không biết bao nhiêu nơi rồi”.

Hai người chia tay nhau và hẹn sẽ gặp lại cũng dưới bóng cây cổ thụ để kể cho nhau nghe những cuộc du lịch của mình.

Sau một năm, họ gặp lại nhau… Người thứ nhất kể chuyện: “Trong một năm qua, hầu như nơi nào tôi cũng đã đặt chân đến. tôi đã đi xuống biển, lên ngàn, vượt đèo, qua suối. Tôi đã gặp gỡ được không biết bao nhiêu người. Tôi đã học được bí quyết kiếm được nhiều tiền… Giờ đây, tôi trở nên giàu có. Tôi sẽ tiếp tục đi du lịch… Còn bạn, bạn đã đi được nơi nào trong suốt năm qua?”

Người bạn chưa từng rời bỏ ngôi làng của mình đã trả lời: “Tôi đã lên trời, tôi đã bay lượn trên các tầng mây. Tôi đã đến đô thị của mặt trời”. Nghe thế, người kia thắc mắc: “Phải chăng con tuấn mã của anh bay được?”. Con người có tâm hồn thi sĩ trả lời: “Đúng thế, con ngựa của tôi có đôi cánh. Nó đưa tôi lên đến tất cả những nơi nào tôi muốn. Mắt tôi nhìn thấy được muôn kỳ công của vũ trụ. Tai tôi nghe được muôn điệu nhạc của thiên nhiên… Đối với anh, sự giàu có nằm trong của cải vàng bạc. Nhưng với tôi, của cải chính là đôi mắt của tâm hồn tôi. Cho dẫu một năm qua, tôi chỉ ngồi dưới bóng cây cổ thụ này,cho dẫu quang cảnh trước mặt tôi chỉ là cánh đồng phẳng lặng này, nhưng tâm hồn tôi có thể nhìn thấy muôn nghìn vẻ đẹp của thiên nhiên,tai tôi có thể nghe được bao nhiêu điệu nhạc mà anh không thể nghe được”.

Người có tâm hồn nghệ sĩ có những rung cảm mà người khác không có. Họ nhìn thấy, họ lắng nghe được những điều mà người khác không cảm nhận được. Cũng thế, người có đôi mắt đức tin có thể nhìn thấy những giá trị mà người khác không nhìn thấy. Đôi mắt đức tin giúp chúng ta cảm nhận được sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong vũ trụ, trong lịch sử, trong con người. Đôi mắt đức tin ấy giúp chúng ta thấy được giá trị của cuộc sống độc điệu, của những hy sinh âm thầm từng ngày. Đôi mắt đức tin ấy giúp chúng ta thấy được lẽ khôn ngoan trong những điều người đời cho là điên dại, sức mạnh trong những cái yếu đuối. Đức tin ấy giúp chúng ta nhìn thấy ánh sáng trong tăm tối, sự sống trong cái chết, ân sủng trong tội lỗi.

22. THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI

Người Ấn Độ thường kể câu chuyện ngụ ngôn về việc sáng tạo con người như sau: Một hôm Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người, nghĩa là làm một tạo vật đẹp nhất giữa các tạo vật. Dĩ nhiên, khi Thiên Chúa vừa công bố quyết định, các thiên thần đã tỏ ra không mấy hồ hởi, một phần vì ganh tỵ, một phần vì không thể chấp nhận được một ý tưởng xem ra quá kỳ cục ấy. Làm sao tưởng tượng được một thụ tạo vừa thuộc về hạ giới, lại vừa tham dự vào đời sống thần linh. Làm sao có thể có được một hữu thể vừa là một mảnh của thời gian, lại vừa mang tính vĩnh cửu? Làm sao chấp nhận được sự kết hợp giữa vật chất và tinh thần?

Các thiên thần không thể tượng tượng được rằng Thiên Chúa có thể tạo dựng được một tạo vật như thế. Các vị e ngại rằng ý tưởng ấy sẽ hạ giảm quyền năng và sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa.

Để ngăn cản Thiên Chúa trong ý định của Ngài, các thiên thần mới bầu ra một uỷ ban. Sau nhiều ngày ráo riết làm việc, uỷ ban đã soạn xong một kiến nghị đệ trình lên Thiên Chúa gồm những điểm như sau: tinh thần không thể kết hợp với vật chất, bản tính thiên thân không thể giao kết với bản tính thú vật, cái có cùng không thể hoà hợp với cái không cùng, cái chóng qua không thể đi đôi với điều vĩnh hằng, do đó yêu cầu Thiên Chúa hãy từ bỏ ý định điên rồ của Ngài.

Sau khi đọc kỹ bản kiến nghị, Thiên Chúa đưa ra phán quyết như sau: “Tất cả những góp ý của các người đều hợp lý. Nhưng điều Ta sắp thực hiện không phải là một vấn đề triết học”. Các thiên thần đều nhao nhao hỏi: “Vậy thì vấn đề đó là gì?”. Sau một hồi thinh lặng, Thiên Chúa chậm rãi đáp: “Con người là vấn đề của niềm tin”. Ngài thinh lặng, rồi phán quyết: “Con người là vấn đề của niềm tin”.

Trong một xã hội xây dựng trên luật của cá lớn ăn hiếp cá bé, trong một xã hội mà nền tảng đã bị đục khoét bởi lọc lừa, gian trá, phản bội, đố kỷ, hận thù, con người dễ mất đi niềm tin nơi con người, bởi vì khi không tin ở người, con người cũng không còn tin ở chính mình. Một cuộc sống như thế chẳng khác nào một cuộc tự huỷ, một cuộc tự sát tập thể.

Thiên Chúa yêu thương mọi người. Ngài tiếp tục tin tưởng nơi con người. Ngài cũng mời gọi chúng ta tin tưởng nơi con người… Thay vì tự giam hãm trong khép kín, trong đố kỵ, chúng ta hãy ra khỏi chính mình để đến với người… Đến với người bằng sự thông cảm tha thứ, cho dẫu chúng ta chỉ gặp toàn những lừa đảo phản bội. Đến với người bằng những san sẻ sớt chia, cho dẫu chúng ta chỉ toàn gặp những bội bạc, vong ân. Đến với người bằng tiếng cười rộn rã, cho dẫu chúng ta chỉ gặp toàn đắng cay, sầu muộn.

23. CHẾT VÌ NIỀM TIN

Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hngary và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.

Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những người giàu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa”.

Vị mục sư cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”. “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, viên sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lúc, chĩa vào vị mục sư và hăm doạ: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.

Vi mục sư điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa”.

Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn nhà và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi đã không thể tin rằng có những người dám chết vì đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.

“Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng sống niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu”.

Công đồng Vatican II đã mở ra một kỷ nguyên mới, đã mang đến cho Hội Thánh và mỗi tín hữu một mùa xuân mới, đã nêu bật và tạo cho mọi tín hữu nhiều cơ hội để biểu lộ niềm tin qua hành động sống đạo và hành đạo. Nhờ quan điểm nay. Đạo đã không bị giới hạn trong nhà thờ và trong những giờ kinh, nhưng đạo và niềm tin đã được đem ra sống và thực hành trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Nhưng câu vấn nạn thường gây nhiều thắc mắc vẫn là: sống niềm tin và thực hành niềm tin nào?

Quan trọng nhất có lẽ là tin vào Thiên Chúa tình yêu. Đối với mỗi người trong chúng ta Thiên Chúa tình yêu nào có một chương trình để dẵn dắt chúng ta đi trong tin yêu và đạt được tình yêu hoàn hảo. Rồi bước thứ hai là thực hành tình yêu với câu hỏi đơn sơ: nếu Chúa là tôi, thì trong hoàn cảnh cụ thể này, Ngài sẽ xử trí và hành động như thế nào?

24. LÒNG THAM KHÔNG ĐÁY

Hôm ấy, trời vừa rạng đông, một ông hoàng nói với tên đầy tớ: “Xem chừng anh mơ ước giàu lắm. Vậy từ giờ này cho tới lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả những ruộng vườn anh chạy vòng quanh được, tôi vui lòng nhường lại cho anh hết”.

Sướng quá! Cha chết sống lại cũng không bằng.

Tức thì chàng cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên lưng con ngựa Ô Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng ta làm chủ được mấy cánh đồng bao la mù mịt. Chàng vừa dừng chân, thì một khu rừng mơn mỡn hiện ra trước mắt cám dỗ chàng. Không kịp thở, chàng lại cắm đầu chạy tiếp, chạy một vòng dài nữa.

Vừa dừng chân, lại một hồ cá mênh mông, với mặt nước trong ngần, huyền ảo phản chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Lại một vòng nữa… Sau cùng, màn đêm đã p[hủ xuống trên nẻo đường đi. Chàng hổn hển quay bước trở về nhà, để làm bậc tỷ phú với “ruộng vườn mặc sức chim bay, biển hổ lai láng mặc bầy cá đua”.

Nhưng vừa bước chân qua ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống đất bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỷ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài quá lao lực quá mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng địa cầu, vừa dài, vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất.

Điểm qua những câu chuyện cổ kim về lòng tham, chúng ta rút được bài học gì…? Chắc có người tự hỏi: sống trong trời củi quế gạo châu, chạy ăn từng bữa này làm gì có nhiều của mà tham với lam. Như những anh ăn mày cũng gắn bó với manh chiếu rách, với chiếc áo tơi đến độ có thể “ăn thua đủ” với những ai đánh cắp.

Lòng tham không cần bị nhiều của cám dỗ mới nổi tính tham. Vì thế đức tình đầu tiên chúng ta cần phải tập là tinh thần từ bỏ, dùng của cải như những phương tiện chớ không phải như mục đích. Bước thứ hai là tập cho có quan niệm: chúng ta chỉ là những người quản lý chớ không phải là chủ nhân những của cải vật chất và có như thế chúng ta mới dễ dàng tiến thêm bước thứ ba: sẵn sàng chia sẻ với những người cần thiết hơn. Không cần phải đợi có tiền muôn bạc vạn mới chia sẻ. Hạt muối cắn hai mới thật sự sưởi ấm lòng người và có công đức trước mặt Thiên Chúa.

25. CÁI BẬT LỬA

Để kỷ niệm một trận chiến,một quận công bên Anh quốc đã làm một bữa tiệc khoản đãi một nhóm cựu sĩ quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông.

Trong bữa tiệc, ông đem khoa một cái bật lửa rất đẹp mà nữ hoàng Anh đã tặng cho ông. Cái bật lửa đã được chuyền từ tay người này đến tay người nọ để được trầm trồ khen ngợi.

Sau bữa ăn, mọi người được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công mới đem thuốc ra mời mọi người. Nhưng mặt ông bỗng biến sắc, vì ông lục lạo mãi trong túi áo mà vẫn không tìm ra cái bật lửa. Ông hỏi quan khách có ai thấy nó ở đâu không. Mọi người chia nhau đi tìm khắp nơi trong nhà mà tuyện nhiên vẫn không thấy cái bật lửa. Lúc bấy giờ, một viên sĩ quan mới đề nghĩ cho tất cả mọi quan khách nên lật túi áo của mình ra để may ra mới có thể thìm thấy nó chăng. Lần lượt tất cả mọi người đều kéo tất cả những gì có trong túi áo của mình ra. Duy chỉ có một người không chấp nhận làm công việc này.Mọi người đều đưa mắt nhìn về ông và ai cũng đoán chắn đây là người đã đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của ông tiều tuỵ, áo quần của ông lại rách rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ quan để thề thốt và dứt khoát không mở túi ra cho mọi người xem.

Vài tuần lễ sau, ông quận công lại tổ chức một bữa tiệc khác và lần này, ông khám phá ra cái bật lửa trong túi áo của ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho một viên sĩ quan đã từng chiến đấu bên cạnh mình, ông quận công đã quyết định đến thăm anh ta để xin lỗi.

Nhà của viên cựu sĩ quan này nằm trong khu phố lầy lội nghèo nàn. Sau khi đã xin lỗi, ông quận công mới hỏi viên sĩ quan: “Tại sao trong bữa tiên hôm đó, anh đã khước từ không mở túi ra cho mọi người xem?”.

Anh ta mới giải thích như sau: “Hẳn ngài đã thấy được căn nhà của tôi đang ở tồi tàn như thế nào. Từ lâu, tôi đã thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn trong nhà. Ngài đâu có biết rằng hôm đó, tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ ăn thừa trên bàn để mang về cho vợ con tôi”.

Sau khi đã hiểu được tình cảnh đáng thương của một người đã từng vào sinh ra tử với mình, ông quận công quyết định đền bù bằng cách tìm cho viên cựu sĩ quan một công việc xứng đáng.

Câu chuyện thương tâm trên đây có lẽ cũng diễn ra trong cuộc sống của chúng ta dưới nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Nhưng tựu trung, có lẽ mẫu số chung của những câu chuyện ấy thường giống nhau: đó là chúng dễ nhìn và đoán xét người theo bề ngoài. Lại nữa, một xã hội có quá nhiều lừa gạt đảo điên cũng dễ khiến chúng ta có thái độ e dè, nghi kỵ ngay cả đối với những người thân thuộc.

Là người tín hữu, chúng ta hãy nhìn ngắm cung cách cư xử của Chúa Giêsu. Ngài không nhìn người bằng những nhãn hiệu có sẵn. Ngài không đến với người bằng những định kiến. Bên kia bộ quần áo sang trọng hay rách rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy hình ảnh cao quý của chính Thiên Chúa. Ngài dành dưu tiên cho những người nghèo khổ, phường thu thuế, bọn gái điếm, những kẻ tội lỗi, những người con bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chỉ có một cái nhìn duy nhất về con người: đó là cái nhìn của cảm thông, của tha thứ, của yêu thương.

26. SỨC MẠNH LỜI CHÚA

Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi.

Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ con. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.

Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thú.

Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh thuật lại: “Đọc đến cây này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thấu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã biến gan và tôi đã tin”.

Ông Chirgwin, tác giả đã viết câu chuyện trên trong quyển sách mang tựa đề “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo” đã kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.

Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một sát nhân giết người không gớm tay như anh Tokichi Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân phục vụ những trẻ con bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội.

27. THẾ GIỚI TRONG TĂM TỐI

Một cuốn phim mang tựa đề “Thế giới trong tăm tối” diễn tả câu chuyện một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem. Ngọn đồi Calvariô được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò, khám phá kỹ lưỡng, vì theo Phúc Âm thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị xử án tử hình thập tự.

Sau bao công khó đào bới, khám sát, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu” và ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ với nhiều phóng viên và nhiếp ảnh viên, để trình bày thành quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào xới, khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra tay chân của xác này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu, có cả những dấu chứng tỏ thân xác này bị nhuộm máu qua những tấm khăn quấn liệm xác.

Cuốn phim quay cảnh mọi người im lặng theo dõi lời thuyết trình của nhà khảo cổ, tình cở có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là một sự thật hiển hiên: ông ta đã bị đóng đinh, chết và được táng xác”. Và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng, nhưng… làm gì có chuyện phục sinh. Xác ông ta vẫn còn nằm đây”.

Tiếp đến cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu của nhà khảo cổ này: Không ai còn mừng lễ phục sinh nữa, một vị linh mục tắt ngọn đèn chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nguyện đường, chuông các nhà thờ im tiếng,các nữ tu cởi khăm trùm đầu, thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống, đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt. Thế giới chìm đắm trong màn đên u tối dày đặc.

Cuốn phim kết thúc bằng cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới, chính tôi đã làm xác giả của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi tôi khởi sự cuộc đời bới tìm xác Ngài”.

Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong tuần thánh. Những ngọn nến được thắp lên và những tín hữu đã mang những ngọn nến được thắp sáng, ngộn nến của niềm hy vọng, đi khắp nơi để soi sáng những con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin: Chúa Giêsu đã phục sinh, tình yêu mạnh hơn hận thù, sự sống mạnh hơn cái chết.

Cuộc phục sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài, nhưng nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, đến lòng tin và niềm hy vọng của chúng ta.

Chúng ta hãy chung lời cầu nguyện cho nhau và với nhau để mỗi ngời trong chúng ta được cùng chết, cùng an táng với Chúa Giêsu cho con người cũ ích kỷ và tội lỗi của chúng ta. Chết thật sự để chúng ta cùng được sống lại với Chúa Giêsu trong một con người hoàn toàn mới, con người phục sinh.

28. NGƯỜI TÍN HỮU CUỐI CÙNG

Tiểu thuyết gia Graham Greene thuật câu chuyện ông dự định viết như sau:

Đây là một chuyện giả tưởng sẽ xảy ra trong tương lai rất xa, khi toàn thế giới chỉ còn được thống trị do một đảng duy nhất. Cảnh đầu tiên của câu chuyện diễn tả trong một khách sạn nhỏ vào lúc màn đêm đã bao trùm vạn vật. Một người khách già nua, mệt nhọc, xốc xếch trong chiếc áo đi mưa đã phai màu, mang một chiếc xách tay tiến vào khách sạn, xin thuê một phòng. Ông ta viết tên họ, nghề nghiệp và địa chỉ vào bản lý lịch và chệnh choạng đi lên phòng. Người quản gia nhìn vào bản lý lịch và buộc miệng hỏi anh thư ký:

– Anh có biết ai đấy không?

– Làm sao tôi biết được, anh thư ký trả lời.

– Đức Giáo Hoàng đấy! người quản gia quả quyết để anh thư ký tròn xoe đôi mắt hỏi vặn lại: Đức Giáo Hoàng? Đức Giáo Hoàng là gì? Đạo Công Giáo lúc ấy đã bị tiêu diệt hoàn toàn, chỉ còn Đức giáo Hoàng là người duy nhất được sống sót. Mạng ngài còn được dung tha vì hai lý do: thứ nhất, để minh chứng cho chính ngài và cho mọi người là Giáo Hội đã chết và thứ hai, để theo dõi xem có tín hữu nào còn lần mò đến để tiếp xúc với ngài không.

Khi đã biết chắc một trăm phần trăm là duy có người là người độc nhất còn mang đức tin Công Giáo, nhà độc tài cho độ ngài đến và tự tay lảy cò súng, kết liểu cuộc đời người tín hữu cuối cùng. Nhưng trong giây phút giữa lúc bóp cò và Đức Thánh Cha chết, một ý tưởng yếu ớt loé ra trong đầu óc nhà độc tài: Có thể điều ông này tin lại có thật, thì sao?

Xuyên qua đời sống chứng nhân của các tín hữu, có thể những người xem thấy đời sống chứng tá của họ tự hỏi: Tại sao họ lại sống như thế? Tại sao họ không chạy theo trào lưu, sống như những kẻ khác, đời bây giờ ai lại không mánh mum lừa đảo, chợ đen chợ đỏ vv…? Lý tưởng nào hay ai đã ghi ảnh hưởng trên họ? Tại sao họ lại sống ở giữa chúng ta? Như thế đời sống chứng nhân đã là một sự tuyên xưng thầm lặng của tín hữu, nhưng nó rất mãnh liệt và hữu hiệu. Đó là những lời phát biểu của Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trong lới giáo huấn của ngài mang tựa đề “Truyền giáo trong xã hội tân tiến”, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Các con là muối đất”, “Các con là ánh sáng thế gian”. Ngài gọi những tín hữu như thế với lòng xác tín là họ có gì xứng đáng để phơi bày và chia sẻ cho anh chị em đang sống bên cạnh.

29. ĐỈNH CAO

Đỉnh Everest cao nhất thế giới của dãy Hy Mã Lạp Sơn như có một ma lực hấp dẫn những người leo núi thiện nghệ. Ai đã vướng vào môn thể thao leo núi xem đó như là một giấc mơ, nếu ngày nào đó họ được đạt chân trên đỉnh núi cao 8.800 thước, quanh năm phủ tuyết này, nhưng chỉ có một số ít người thực hiện được giấc mộng ấy và rất nhiều người đã bỏ mình dọc theo con đường lên đỉnh.

Trên những con đường ấy, người ta thấy hai bia mộ ghi những dòng chữ sau đây: bia thứ nhất đề “Họ được thấy lần cuối cùng tong lúc gắng sức leo lên”. VÀ bia thứ hai để tưởng niệm một hướng đạo viên chỉ viết vỏn vẹn một câu “Ông ta chết trong lúc đang leo”.

Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu không ngừng thì để sống đạo và hành đạo cũng thế. Điều quan trọng không phải thành công hay thất bại, mà là chỗi dậy và tiến bước. Phải gọi thẳng tiến thì đúng hơn, vì câu tâm niệm của các Kitô hữu phải là: “Ngày hôm nay tốt hơn ngày hôm qua, nhưng kém hơn ngày mai”.

Bí quyết thành công thứ hai là không bao giờ chúng ta nên đi trên con đường nên thánh một mình, hãy noi gương những người đi trước, những thánh nhân là hãy cùng nhau tiến bước. Và nhất là hãy đi vào những vết chân Chúa Giêsu đã để lại.

30. MỘT CHỖ KHỦNG KHIẾP

Câu chuyện xảy ra tại một nhà giam bên Liên Xô. Một cựu tù nhân, bà Arsenjeff, thuật lại một kinh nghiệm mắt thấy tai nghe diễn ra tại đó, nơi bà gọi là “Một chỗ khủng khiếp” như sau: Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi kể miệng vào tai tôi khẽ nói: chị biết mài là ngày gì không? Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp: “mai là ngày lễ Phục sinh”.

Nghe nói thế, tôi tự hỏi: “Lễ Phục sinh đã đến rồi sao, lễ của niềm vui và hy vọng? Nhưng trong tù, niềm vui của chúng tôi đã héo úa và khô cằn. Còn niềm hy vọng…? Tôi đi lại trong phòng và không dám suy nghĩ tiếp.

Bỗng một tiếng reo vang nổi lên pha tan bầu không khí nặng nề: “Đức Kitô đã sống lại!”. Tôi quay lại nhìn đôi mắt cô gái vừa cất tiếng tuyên xưng niềm tin và bắt gặp đôi mắt cô chiếu lên một ánh sáng long lanh huyền dịu. Cùng lúc ấy, từ mọi phía của những phòng giam khác vang lên câu trả lời: “Ngài đã sống lại thật”.

Quá sửng sốt, các nhân viên trại giam trở nên bất động, như những tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí, họ giận dữ lên án một diễn tiến không bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến gần phòng giam của chúng tôi. Rồi cửa phòng được mở tung. Hai nhân viên giận dữ hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan và hùng hổ túm lấy cô gái, lôi cô ta sền sệt ra khỏi phòng.

Một tuần lễ sau, cô ta được thả về phòng giam, mặt cô ta xanh xao, người gầy đi thấy rõ. Qua tuần lễ Phục sinh, người ta đã biệt giam cô vào một phòng không có lò sưởi, để cái lạnh thấy xương và cơn đói hành hạ thân thể một con người họ cho là cuồng tín. Sau khi nằm yên tại một góc phòng hồi lâu, cô ta vẫy tay gọi tôi lại thều thào: “Dù sao tôi ũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh trong trại giam. Những cái khác không quan trọng gì cho lắm”. Nói xong cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn loé sáng lên như dạo nào.

Được dịp tuyên xưng niềm tin Phục sinh cách đặc biệt như cô gái trên thật hiếm hoi. Nhưng mẫu gương can đảm của cô phải nhắc nhở chúng ta cố gắng thực thi lời nguyện chúng ta luôn cùng nhau xướng lên sau những lời truyền phép: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho đến khi Chúa lại đến”.

Tuyên xưng việc Chúa sống lại bằng cách hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của sự chết, của những đau khổ, của những vấn đề khó khăn. Cuộc sống của chúng ta không chỉ đóng khung và chấm cùng tại đó. Nhưng người mang niềm tin phục sinh phải chiến đấu để vượt qua, để lướt thắng những khó khăn, hạn chế những đau khổ, những sự dữ, những tội lỗi, để phát huy cuộc sống mới của những tạo vật được tái sinh nhờ cái chết và cuộc phục sinh của Chúa Kitô.

31. LÒNG TỐT CỦA MẸ DẠY CON MUỐN TIẾP TỤC SỐNG

George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.

Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.

Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: “Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?”.

Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời như sau: “Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lăng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự bình thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống”.

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Isave. Giáo Hội đặt lễ này vào ngày cuối cùng tháng năm như cao điểm của tháng hoa.

Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin của bà Isave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vỡ bỡ cho Gioan Tẩy Giả.

Bên cạnh Chúa Giêsu, từ tiệc cưới Cana cho đến dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.

Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.

Tưởng niệm biến cố Mẹ lên đường đến viếng thăm bà Isave trong ngày cuối tháng hoa này, mỗi người Kitô chúng ta được mời gọi để tin tưởng hơn bao giờ hết vào sự hiện diện đầy ưu ái của Mẹ trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.

Người mẹ của tổng thống George Washington đã không nói nhiều, nhưng sự hiện diện của đầy thanh thản và lòng quảng đại của bà đã mang sức sống và sự hăng say chiến đấu cho ông. Cũng thế, Mẹ Maria cũng hiện diện trong cuộc sống của chúng ta một cách âm thầm. Mẹ không nói nhiều, nhưng sự thanh thản và lòng từ ái của Mẹ có sức mang lại cho chúng ta niềm vui, sự can đảm để tiếp tục dấn bước trong cuộc lữ hành trần gian này.

Những lúc mệt mỏi trong cuộc sống, những lúc tối tăm bao trùm cuộc sống, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ. Một vài kinh Kính Mừng mà có thể chúng ta chỉ đọc một cách máy móc, đó chính là những giây phút chúng ta tiến đến ngồi kề bên Mẹ. Đó không là những phút giây vô ích, trái lại sự thanh thản của Mẹ, lòng quảng đại của Mẹ sẽ là nguồn nâng đỡ chúng ta.

Theo giai thoại của người Trung Hoa thì ngày xưa có một người tên là Vinh khải Kỳ tỏ ra là một bậc tiên ông đạo cốt, mình mắc áo lông cừu, lưng thắt dây, ngày ngày giao du ở sơn thuỷ, vui thú cầm ca chậm rãi rảo bước… tay đánh đàn miệng ca hát không ngừng. Một hôm, Đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải Kỳ, ngài mới hỏi ông: “tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ ca hát thế?”.

Khải Kỳ thưa: “Trời sanh muôn vật, loài người cao quí nhất. ta đã được làm ngươi, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non yếu… mà ta thì khoẻ mạnh sống lạu, thế là hai điều đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta này biết vơi với cảnh đời để đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa?”.

Lạc quan, vui sống là đức tính cơ bản nhất của người Kitô. Người Kitô nhật ra phẩm giá cao cả của mình và tiếp nhận mọi sự xảy đến như một hồng ân của Chúa. Cây cỏ đồng nội, muôn thú trên rừng không nhọc công tích trữ mà còn được Chúa che chở nuôi nấng, huống chi con người là hình ảnh của Người… Mỗi ngày có niềm vu nỗi khổ của nó. hãy quẳng gánh lo đi và vui sống từng phút giây như một ân ban của Chúa, đó là bí quyết để giúp ta được hạnh phúc ở đời này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *