SUY NIỆM LẼ SỐNG – THÁNG 10

SUY NIỆM LẼ SỐNG – THÁNG 10

 

1. CHỢ HOA

Trong những thập niên vừa qua, đã có rất nhiều hội chợ hoa được tổ chức khắp nơi. Nhưng vĩ đại nhất có lẽ là hội chợ hoa Osaka, Nhật Bản, khai mạc dạo đầu tháng Tư và kết thúc ngày cuối tháng Chín năm 1990 vừa qua.

Hội chợ hoa này được tổ chức tại thị xã Tsurumi, một vùng đất đang phát triển theo kế hoạch xây dựng cho thế kỷ 21. Trên một khoảng đất rộng 140 mẫu tây, 3 triệu loại hoa và thảo mộc khác nhau trên khắp thế giới đã tề tựu về để khoe sắc tranh hương chào đón du khách.

Vừa bước vào trung tâm hội chợ, một bức tường lớn đan bằng đủ loại hoa, màu sắc rực rỡ đập ngay vào mắt du khách. Khuôn viên phía tây dành cho các loại hoa cần chăm sóc trong nhà kiếng, cùng với các loại hoa điện tử nhân tạo. Khách thưởng ngoạn sẽ được xem những loại hoa lớn nhất thế giới từ Nam Dương đưa sang. Du khách cũng có thể say mê với những loại hoa nhân tạo mà hình dạng và màu sắc biến đổi không ngừng, tạo nên hình ảnh của thế giới thần tiên.

Vắng người hơn, ở phía đông, là khuôn viên dành cho các loại hoa: tất cả các loại hoa đều được trồng giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ.

Giữa hai khuôn viên là một con sông nhỏ, dưới lòng sông có thiết kế những vòi phun nước. Nước lên mạnh yếu tuỳ theo điệu nhạc phát ra từ giàn âm thanh nổi tuyệt hảo ở hai bờ sông. Cứ nửa tiếng đồng hồ, có một câu chuyện thần thoại được dòng sông kẻ lại bằng hệ thống phun nước, hoà với tiếng nhạc và ánh đèn màu về đêm, tạo nên một khung cảnh rất nên thơ và thanh bình.

Hoàng đế Nã Phá Luân của nước Pháp đã có lần phát biểu như sau: “Nơi nào hoa tàn, nơi đó con người không thể sống…”. Ai trong chúng ta cũng yêu hoa, ai trong chúng ta cũng thích sống với sự hiện diện của họ. Vui, chúng ta thích ngắm hoa, buồn, chúng ta cũng thích nhìn hoa. Hoa dường như gẫn gũi và thông cảm với con người… Nhìn hoa sen,chúng ta tưởng tượng ra cảnh gió mát trên bờ hồ. Ngắm hoa hồng, chúng ta như thấy dậy lên những tình cảm thanh cao. Ngắm hoa huệ giữa đồng, chúng ta chợt ghĩ đến cảnh đời sớm nở tối tàn…

tháng 10 hằng năm, cùng với những cánh hoa dâng lên Mẹ, chúng ta chiêm ngắm Mẹ. Mẹ là đoá hoa đẹp nhất của vũ trụ. Nhìn lên Mẹ, chúng ta hưởng nếm được tất cả mọi hương sắc của thánh thiện…

Mẹ là đoá hoa luôn gần gũi và cảm thông với chúng ta. Lúc nào Mẹ cũng có thể nở nụ cười của khích lệ, cổ võ cho chúng ta. Lúc nào Mẹ cũng có thể hướng ánh mắt của cảm thông, tha thứ về phía chúng ta…

chạy đến với Mẹ, chiêm ngắm hương thơm thánh thiện của Mẹ, chúng ta cũng hãy xin Mẹ biến chúng ta thành những cánh hoa để giúp cho đời thêm tươi thắm… Giữa sa mạc khô cằn tình người, xin Mẹ luôn làm nở lên trong chúng ta những cánh hoa của yêu thương, bác ái, cảm thông, tha thứ, phục vụ… Giữa sa mạc khô cằn niềm tin và hy vọng, xin Mẹ làm nở lên trong chúng ta những cánh hoa của tin tưởng, phó thác, cậy trông…

2. NHỮNG LÁ THƯ CỦA NGƯỜI MẸ

Trong trận đệ nhị thế chiến, có một văn sĩ Hungary gốc Do Thái bị Đức quốc xã bắt làm tù binh, trong khi tham gia trong quân đội Pháp. Qua những tác phẩm chống Đức quốc xã, văn sĩ gốc Do Thái này khó mà che giấu được tung tích của mình. Một người lính Pháp cùng bị bắt làm tù binh đã đề nghị là hai người nên sử dụng chung một tên tuổi và lý lịch, bởi vì họ sẽ bị thuyên chuyễn đến các trại khác nhau. Quân Đức quốc xã khó mà nhận ra sự kiện hai người cùng đồng tên và có chung một lý lịch. Người lính Pháp đã trao cho văn sĩ gốc Do Thái thẻ bài cũng như một số thư của mẹ anh. Anh dặn dò văn sĩ gốc Do Thái như sau: “Nếu có bị điều tra anh về lý lịch, anh hãy cho họ xem những lá thư này”.

Sau này, người văn sĩ gốc Do Thái có dịp đọc những lá thư của mẹ người lính Pháp. Nhìn những tờ giấy viết thư nhàu nát, dòng chữ yếu ớt, ông đoán được rằng người mẹ này có lẽ là một người đàn bà nhà quê già yếu, nhưng thương con với tất cả sự đậm đà của tình mẫu tử. Chung qui những lá thư ấy đều có dặn dò giống như nhau: “Con hãy giữ gìn sức khoẻ… Cố gắng đắp chân cho thật ấm nghe con… Xin Chúa chúc lành cho con và chóng đưa con về đến nhà bình an”.

Mang lấy tên tuổi và lý lịch của người lính Pháp, người văn sĩ gốc Do Thái đọc lên những lời dặn dò trên đây như chính người mẹ ruột thịt của mình. Cũng chính những dòng chữ nguệch ngoạc nhưng dạt dào tình mẹ ấy đã trở thành một bảo chứng cứu thoát ông.

Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta. Ngài đã cho chúng ta mang lấy tên tuổi và lý lịch của Ngài. Ngài cũng trao ban cho chúng ta chính người Mẹ của Ngài. Tâm tình của một người mẹ đã cưu mang, đã cho bú mớm, đã dõi theo từng bước chân của con, đã câm lặng bên thập giá, đã đón lấy tấm thân không hồn của người con: tâm tình ấy của Mẹ Maria, Chúa Giêsu cũng muốn trao cho chúng ta. Mẹ của Chúa Giêsu cũng là người Mẹ trọn vẹn của mỗi người trong chúng ta.

“Hỡi Bà, đây là con Bà!”. Trao ban thánh Gioan cho Mẹ, Chúa Giêsu cũng trao ban mỗi người chúng ta cho Mẹ. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay đần độn, khoẻ mạnh hay bệnh tật: mỗi người chúng ta đều được Mẹ đón nhận như người con trọn vẹn của Mẹ. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ dành cho tất cả tâm tình mà Mẹ đã dành cho Chúa Giêsu.

Hơn bao giờ hết, chúng ta hãy tin tưởng điều đó… Người lính trận đã luôn mang những lời dặn dò của mẹ anh như một báu vật, như một hành trang giữa những nguy ngập của cuộc chiến. Chúng ta cũng hãy mang lấy tâm tình của Mẹ. hãy luôn chạy đến với Mẹ. Hãy luôn ôn lại những lời dặn dò của Mẹ, nhất là mỗi khi chúng ta gặp thử thách, ưu buồn trong cuộc sống.

3. BÁU VẬT CUỐI CÙNG

Ngày 10 tháng Ba năm 1615, tại Glasgow bên Tô Cách Lan, một vị thừa sai lừng danh là cha Ogilvie bước lên máy chém, vì tội rao giảng Phúc Âm.

Trong giây phút cuối đời, đứng trên đoạn đầu đài thấy hàng ngàn người đứng coi, muốn để lại cho họ một kỷ niệm và một đảm bảo đức tin, vị tử đạo lấy ra vật cuối cùng còn lại trong mình: đó là một cổ tràng hạt… Ngài cố sức ném tràng chuỗi vào giữa biển người. Tràng chuỗi đã rơi xuống trúng một ông hoàng xứ Hungary đang trên đường chu du học hỏi, tình cờ ghé qua Glasgow.

Chuỗi tràng hạt này đã bám riết ông khắp nơi, mãi đến ngày ông quyết định từ bỏ giáo phái Calvin để quay trở lại với Công Giáo.

Những mẩu chuyện trên đây không phải là ít trong lịch sử Giáo Hội. Việc sám hối luôn gắn liền với kinh Mân Côi. Đó là mệnh lệnh mà Mẹ Maria đã ban bố tại Fatima năm 1917: “Hãy năng lần hạt Mân Côi”.

Thánh Grêgoriô thành Nysse thường dùng thí dụ sau đây để nói về ảnh hưởng của kinh Mân Côi trong đời sống Kitô của chúng ta: “Mỗi người chúng ta được ví như một hoạ sĩ, linh hồn chúng ta là một khung vải còn nguyên vẹn, màu sắc được dùng là các nhân đức Kitô giáo, hình ảnh phải hoạ theo là chính Chúa Giêsu Kitô, hình ảnh sống động của Chúa Cha. Hoạ sĩ nào càng muốn hình ảnh hoạ lại được giống hình mẫu, càng phải năng ngắm nhìn hình mẫu khi đặt bút vẽ”.

Mẹ Maria là mẫu gương của đời sống Kitô. Qua kinh Mân Côi, chúng ta chiêm ngắm các biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Nhờ ôn đi, đọc lại nhiều lần, các biến cố đó sẽ thấm nhập tâm hồn chúng ta để dần dần biến chúng ta theo khuôn mẫu của các Ngài.

Kinh Mân Côi không những là hình thức đạo đức có tính cách cá nhân, nhưng còn là chất keo nối kết mọi người trong gia đình lại với nhau. Còn hình ảnh nào được ghi đậm trong tâm khảm chúng ta cho bằng những giờ kinh Mân Côi đọc chung trong gia đình… Gần đây, người ta phát động việc đọc kinh Mân Côi trong gia đình với khẩu hiệu: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng vững.

“Nơi nào có hai hay ba người ngồi lại với nhau vì danh Ta, Ta sẽ ở giữa họ”. Mà nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó cũng sẽ có tình yêu. Vì tình yêu là chất men liên kết mọi người trong gia đình lại với nhau.

Việc cầu nguyện trong gia đình, nhất là với kinh Mân Côi, là yếu tố bảo đảm sự bền vững của hôn nhân và khơi dậy ơn gọi trong gia đình.

Trong Tông huấn về việc tôn kính Mẹ Maria, Đức Phaolô VI đã nhắn nhủ chúng ta như sau: “Những điều kiện sinh sống đổi thay của ngày nay khiến việc hội họp gia đình không được dễ dàng và dù khi sum họp được thì nhiều hoàn cảnh lại làm cho cuộc họp mặt khó biến thành một dịp cầu nguyện. Các gia đình mốn sống trọn vẹn ơn gọi và tinh thần của gia đình công giáo phải tận lực lướt thắng những áp lực cản trở gia đình không thể hội họp và cầu nguyện chung”.

Tinh thần đạo đức của các phần tử trong gia đình được thể hiện và tăng triển trong những giờ cầu nguyện chung, gồm cả việc đọc kinh hay đọc sách Thánh, chia sẻ lời Chúa, nhưng thuận lời hơn cả đối với các gia đình Việt nam đó là việc đọc kinh Mân Côi. Cụng chính Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI khuyên nhủ chúng ta: “Sau việc đọc kinh Nhựt tụng thì việc đọc kinh Mân Côi được coi như một trong những kinh cầu nguyện chung tốt đẹp nhất, hữu hiệu nhất mà gia đình công giáo được khuyến khích đọc”.

4. BÍ QUYẾT TRẺ TRUNG

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.

Sống cách chúng ta trên 7 thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh trẻ trung. Chưa có vị thánh nào trong Giáo Hội được nhắc nhớ, yêu mến như thánh nhân. Chưa có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật cho bằng thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách mạng ca tụng cho bằng thánh nhân.

Sứ điệp của thánh nhân siêu vượt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện thân của tuổi trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi luôn biết giữ mãi một tâm hồn tươi trẻ. “Tuổi trẻ không phải là điều kiện thể lý cho bằng bầu khí của tâm hồn”. Có lẽ thánh nhân không phải là người đã nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn Ngài đã sống theo châm ngôn ấy.

Ngài biết giữ mãi cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng cách chống cự lại các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo lắng, không buồn giận.

Những khám phá của khoa tâm lý học ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống một cách trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ, các nhà tâm lý học khuyên chúng ta như sau:

– Hãy tập yêu thích những gì không quá đắt giá. – Hãy yêu thích việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc. – Hãy tập yêu thích những thức ăn thanh đạm. – Hãy tập yêu thích tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn rã của trẻ em. – Hãy tập yêu thích trồng trọt, làm việc tay chân. – Hãy tập yêu thích ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà cũng như cảnh tuyết rơi. – Hãy tập yêu thích những nhu cầu đơn giản nhất. – Hãy tập yêu thích công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc. – Hãy tập yêu người, dù người không giống ta.

Không khí,ánh sáng mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những yếu tố cần thiết để tạo cho bầu khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó không là những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp tron bài ca vạn vật của thánh Phanxicô Assisi?

Một tâm hồn luôn luôn tươi trẻ: đó không chỉ là một bí quyết để được hạnh phúc trên đời này, nhưng còn là một đòi hỏi đối với người Kitô. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống chúng. Ta nói thật với các con: nếu các con không đón nhận Nước Trời như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.

5. SỨ ĐIỆP CỦA MỘT NGƯỜI TÀN TẬT

Hằng năm tổ chức có tên là “Tự nguyện chịu đau khổ” hành hương đến Lộ Đức để chia sẻ kinh nghiệm của họ khi đối đầu với đau khổ. Năm 1982, khách hành hương đã chú ý đến lời chia sẻ của Jacques Lebreton, một phó tế vĩnh viễn không tay, mù mắt. Chúng ta hãy lắng nghe chứng từ của ông:

Sau trận đánh ở El Alamem, tôi và các bạn của tôi đang lo gỡ mìn. Một anh bạn tôi cầm một quả lựu đạn và vô tình mở chốt. Trong cơn hốt hoảng, anh trao cho tôi. Tôi cứ tự nhiên cầm lấy quả lựu đạn. Nó đã nổ tung trong tay tôi. Tôi tối tăm mặt mũi, không nói được nữa. Tôi cảm thấy mình đang chết. Tôi chỉ còn là một người không tay, không mắt… Tôi toan tự tử.

Trên giường bệnh ở nhà thương, tôi, một người đã không giữ đạo từ lâu, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi xin được rước lễ. Tôi đã hiểu nguyên do sự đau khổ của tôi là tội lỗi nhân loại: đó là thù oán, kiêu căng, chiến tranh… Và tôi đã tìm lại được sự an vui và trông cậy.

Tôi cảm thấy một cái gì tương tự như Chúa Giêsu trong vườn Giệtsêmani. Ngài cũng không muốn chịu đau khổ. Ngài đã van xin: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này”, nhưng liền sau đó, Ngài lại thưa: “Lạy Cha, xin vâng theo ý Chúa”. Sau thảm kịch Golgotha, Ngài đã sống lại. Chính nhờ mầu nhiệm chết và sống lại mà Chúa Kitô muốn cho chúng ta cùng sống. Tôi đã đạt đến mức độ không phải là chịu đựng mà là chấp nhận. Chịu đựng là một thất bại. Chấp nhận là một chiến thắng. Trên giường bệnh, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng với ý nghĩ ấy. Điều mà tự nhiên tôi không thể chịu được, nay nhờ ơn Chúa tôi đã chịu được.

Như lời văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xoá bỏ đau khổ, nhưng để cùng hiện diện với những người đau khổ”. Tôi đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán: “Phúc cho nhữn kẻ khóc lóc, phúc cho nhữn kẻ đau khổ”.

Tại Evreux, tôi gặp được một người đàn bà hoàn toàn bất toại, đến nỗi không thể nói được. Nhưng nhờ ngón chân cái của bà, bà có thể máy động bàn chữ cái trên một miếng ván và bà đã tặng tôi một bài thơ có tựa đề “Nụ cười”.

Tôi liên tưởng đến một người đàn ông khác, bị điếc từ lúc 14 tuổi, mù từ lúc lên 16 tuổi. Trên giường bệnh, lúc hấp hối, người đàn ông 87 tuổi này đã thốt lên như sau: “Tôi đã trải qua một cuộc đời tốt đẹp”.

Ông Jacques Lebreton kết luận như sau: “Tôi, một người không tay,không mắt, tôi cũng thấy đời tươi đẹp. Cuối cùng, sự tàn tật lớn lao nhất là bị chia lìa với Thiên Chúa. Tôi không thể nói như vậy, nếu tôi lành lặn với đôi mắt và đôi tay. Nhưng tôi có thể nói như vậy vì tôi biết thế nào là sống xa Chúa. Và hôm nay, sau một chặng đường dài, tôi lớn tiếng kêu lên với tất cả các người anh em của tôi rằng: Thiên Chúa hằng sống. Đức Kitô đã sống lại”.

Đã có khoảng 6.000 vụ lành bệnh lạ lùng được ghi nhận tại Lộ Đức, trong số này chỉ có 64 vụ được Giáo Hội công nhận là phép lạ. Nhưng phép lạ cả thể nhất của Lộ Đức cũng như của những trung tâm Thánh Mẫu khác: chính là phép lạ của lòng tin. Và trong những phép lạ của lòng tin ấy, kỳ diệu hơn cả vẫn là niềm tin, sự chấp nhận, tinh thần lạc quan của chính những người đau khổ. Trong niềm đau tột cùng trong thân xác cũng như tâm hồn, những con người ấy vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, tình yêu cao cả của Chúa. Đó chính là phép lạ mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện qua những người có lòng tin. Và đó phải là phép lạ mà chúng ta không ngừng kêu cầu Chúa thực hiện.

Nhìn lên thập giá Chúa, trong niềm hiệp thông với Mẹ Ngài, chúng ta hãy cầu din Chúa ban cho chúng ta được tiếp tục tin yêu, được tiếp tục nhìn thấy ánh sáng p hục sinh giữa những đêm tối của khổ đau, thử thách. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho không biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau đớn của thể xác, trong cô đơn của tâm hồn. Xin cho họ được nâng đỡ, ủi an và tìm được niềm tin.

6. BƯU ĐIỆN LỚN NHẤT THẾ GIỚI

Có lẽ bưu điện lớn nhất thế giới phải là bưu điện trước cổng thiên đàng… Mỗi ngày có không biết bao nhiêu thư viết bằng không biết bao nhiêu ngôn ngữ được gởi đến… Tất cả đều là những lời cầu xin. Theo sự phân loại của các thiên thần, thì ba vị nhận được nhiều thư nhất: đó là Đức Maria, rồi đến thánh Antôn và thánh nữ Rita.

Một ngày kia, không còn cầm được tính tò mò, các thiên thần không những đã mở thư gởi cho các thánh, mà ngay cả các lá thư gởi đến cho Đức Mẹ, các vị cũng không tha. Nhưng các vị thiên thần đã thất vọng, bởi vì nội dung và cách viết thư đều giống nhau. Đại khái thì cũng chỉ là: Lạy mẹ, xin chữa cho con chóng lành bệnh… Xin cho con của con được khoẻ mạnh… Xin cho con tìm được việc làm… xin giúp con thi đỗ… xin cho con tìm lại được chồng con…

Cả một loạt kinh cầu mà các vị thiên sứ cũng đành phải nhàm chán, đến độ các vị phải thốt lên: dường như Thiên Chúa chỉ tạo dựng con người có một cái miệng, một cái bụng… Họ không có linh hồn, bởi vì tất cả những lời cầu xin của họ đều qui về hai bộ phận ấy.

Đức Maria ngày nào cũng như ngày nào đều phải đọc lại những lá thư có cùng nội dung và một công thức. Tình cờ, có một lá thư làm Mẹ chú ý. Lá thư đó viết như sau: “Lạy Trinh Nữ rất thánh, con chỉ xin Mẹ một điều mà thôi: xin mẹ cho con mỗi ngày được nên giống Chúa Giêsu hơn”.

Đọc xong lá thư, Đức Maria bật khóc vài cảm động. Ngài nói với các thiên sứ phục vụ tại bưu điện: đây là lá thư mà Mẹ mong đợi từng ngày.

Theo sự thăm dò của nhiều tờ báo lớn trên thế giới, thì tước hiệu “Người đàn bà năm 1987” đã được dành cho thủ tướng nước Anh là bà Margueret Thatcher, người đã đắc cử vào chức vụ này liên tiếp trong ba nhiệm kỳ.

Đứng hàng thứ hai trong sanh sách nhưng người đàn bà trong năm là nữ tổng thống Aquinô của Phi Luật Tân, người đang đương đầu với không biết bao nhiêu xáo trộn trong nước.

Người thứ ba trong danh sách là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, giải thưởng Nobel về hoà bình năm 1979… Kế đó là nữ hoàng Elizabeth II của nước Anh, bà Simone Veil, chủ tịch quốc hội Âu châu vv…

Đối với chúng ta, những người Kitô, thì người đàn bà trong năm và nhất là trong tháng mười này, phải là Mẹ Maria, người Mẹ không p hải của một gia đình, một dân tộc, vị nữ hoàng không phải của một dân tộc, nhưng là của tất cả nhân loại… Mẹ đang lắng nghe chúng ta trong suốt tháng 10 này. Chúng ta hãy thưa với Mẹ tất cả nhữn gì chúng ta đang cần.

Nhưng điều Mẹ luôn chờ đợi để trợ giúp chúng ta: đó là mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa Giêsu con Mẹ. Bởi vì, trong tất cả mọi ơn cần cho chúng ta, đó là ơn cao trọng nhất. Càng nên giống Chúa Giêsu, chúng ta càng nên giống Mẹ và được đến gần Mẹ.

7. CHỜ ĐỢI

Theo tâm lý thông thường, ai cũng sợ phải chờ đợi, ai cụng sợ phải xếp hàng cả ngày. Ít hay nhiều, sự chờ đợi nào cũng là một cực hình. Nhưng mâu thuẫn thay, chúng ta lại thường biến cuộc đời thành một thứ đợi chờ, thành những phòng đợi triền miên…

Cả tuần lễ, ai cũng mong được đến ngày thứ Bảy, Chúa nhật để được nghỉ ngơi. Chúa nhật này đến, chúng ta lại chờ đợi Chúa nhật khác đến. Tháng này đến, chúng ta lại chờ tháng sau. Năm này đến, chúng ta lại chờ năm sau…

Lên xe, chúng ta mong đến đích điểm. Khi đến nơi, chúng ta lại thấp thỏm mong ra về. Vào rạp chiếu bóng, nhiều người thường vội vàng đứng dậy trước khi cuốn phim chấm dứt: họ làm như thể vào rạp chiếu bóng là chỉ để mau đến giây phút ra về. Đi dự thánh lễ, dù lễ chưa xong, đã có kẻ muốn vội vàng đứng lên ra về: họ làm như thể chỉ đến nhà thờ để mong cho đến giây phút tan lễ. Vừa ra khỏi nhà, đã chờ mong để quay trở lại, nhưng khi vào nhà thì lại đợi đến lúc đi ra.

Với sự nóng lòng chờ đợi giây phút sẽ tới này, chúng ta sống như thể cuộc đời không có liên hệ với những giây phút hiện tại. Chúng ta biến cuộc đời thành một thứ phòng đợi, đợi hết cái này đến điều kia, đợi cả những điều sẽ không bao giờ xảy đến.

Tháng 10 là thánh dàng riêng để tôn kính Mẹ Maria với tràng chuỗi Mân Côi và cùng với Mẹ, sống mầu nhiệm cứu rỗi trong từng phút giây của cuộc sống.

Ơn cứu rỗi không là một biến cố của quá khứ hoặc là một biến cố sẽ đến mà là một sự kiện đang diễn ra trong từng phút giây của cuộc sống. Mẹ Maria quả thực là mẫu gương cho chúng ta trong thái độ tiếp nhận ơn cứu rỗi. Thời gian đối với Mẹ không là những tháng ngày chờ đợi, mà là những tích tắc của từng khoảnh khắc đang đến với Mẹ. Với hai tiếng thưa xin vâng, Mẹ đón nhận giây phút hiện tại như một món quà cao quí nhất Thiên Chúa trao ban.

Cùng với Mẹ sống lại mầu nhiệm của ơn cứu rỗi, chúng ta hãy đón nhận Đấng đang đến, Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Chúng ta hãy đón Ngài trong phút giây hiện tại này đây với tất cả tin tưởng phó thác.

Chúa trao ban cho chúng ta nhiệm vụ để thi hành trong phút giây này đây. Chúng ta hãy hoàn tất với tất cả cố gắng của chúng ta. chúa trao gan cho chúng ta niềm vui của phút giây này đây, hãy tận hưởng như thể sẽ không còn một niềm vui nào khác.

8. BỨC TƯỢNG NGƯỜI MÙ

Cũng giống như bất cứ một trung tâm hành hương nào, tại Lộ Đức, du khách và khách hành hương có thể đọc được không biết bao nhiêu lời cảm tạ dâng lên Đức Mẹ cũng như không biết bao nhiêu kỷ vật khác mà những người thọ ơn muốn cho thiết lập để ghi nhớ ơn Mẹ… Trong muôn nghìn kỷ vật tạ ơn ấy, người ta thấy có một bức tượng diễn tả một người mù vừa được chữa lành. Dĩ nhiên, được sáng mắt là một trong những phép lạ đầu tiên được ghi trong sách những phép lạ tại Lộ Đức. Nhưng bức tượng người mù sáng mắt ở đây lại tượng trưng cho một biến cố khác, một phép lạ theo đúng nghĩa bởi vì đó là phép lạ của một người tìm lại được ánh sáng đức tin.

Bức tượng này được một người đàn bà quí phái cho dựng lên để ghi nhớ ánh sáng đức tin mà bà đã tìm lại được tại Lộ Đức. Tuy là người công giáo, nhưng kể từ khi chồng qua đời, người đàn bà không còn một chút tin tưởng gì nơi Chúa Mẹ nữa. Và dĩ nhiên, cũng giống như những người khô đạo khác, người đàn bà chỉ tìm kiếm có mỗi một điều: đó là thú vui trong cuộc sống.

Một mùa hè nọ, trên đường đi đến một trung tâm nghỉ mát nổi tiếng ở phía Nam nước Pháp, người đàn bà phải đi qua Lộ Đức. Thấy đám đông tấp nập tại trung tâm Thánh Mẫu, bà ta tò mò dừng lại. Bà không ngờ rằng chính Chúa đang tìm kiếm và đeo đuổi bà. Từ thái độ bàng quang của một người hiếu kỳ, người đàn bà đã tìm lại ánh sáng đức tin. Để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, bà đã cho dựng lên bức tượng của người mù với hàng chữ như sau: “Tìm lại đức tin là một phép lạ vĩ đại hơn là được sáng mắt”.

Trên vạn nẻo đường của chúng ta, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Thật ra, không phải con người đi tìm kiếm thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đeo đuổi kiếm tìm con người.

Trong mọi biến cố của cuộc sống, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Trong an vui hạnh phúc, hay trong thất bại hổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh ta để mời gọi ta tin tưởng ở tình yêu của Ngài. Ngay cả khi con người muốn khước từ và gạt bỏ ngài ra khỏi cuộc sống. Thiên Chúa vân tiếp tục đeo đuổi con người.

Thánh Kinh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thuỷ, lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ, lúc nào cũng vỗ về, lúc nào cũng tha thứ.

Tin ở một sự hiện diện trung thành như thế của Thiên ?Chúa, thái độ của chúng ta phải là tỉnh thức, chờ đợi và tin tưởng không ngừng. Trong an vui thịnh đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa. Trong thất bại khổ đau, chúng ta cũng hãy tin tưởng phó thác. Và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng ở lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ mặc con người.

9. CẦU NGUYỆN LÀ HƠI THỞ CỦA LINH HỒN

Thời cách mạng Pháp năm 1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả những gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân có muốn từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phát đã trả lời như sau: “Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi cầu nguyện”.

Tự đáy tâm hồn mình,con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên chúa. Cầu nguyện,dưới hình thức này hay hình thức khác,là hơi thở của tâm hồn. Người ta có thể trói buộc tay chân con người, người ta có thể khoá chặt miệng lười con người, nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.

Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác vì bệnh tật, đớn đau hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm hồn con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên mọi thử thách và chết chóc.

10. TRẦN NHƯ NHỘNG

Trần Bình vốn là một mưu thần đời nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn Sở về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. người lái đò đưa khách qua lại vốn lại một tay cướp giựt, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là một người giàu có, định ra tay hãm hại để thâu đoạt tiền của. Biết ý định của tên lái đò, trước khi xuống đò, Trần Bình đã cởi bỏ hết quần áo. Mình trần như nhộng, Trần Bình lại đến xin tên lái đó cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một người trần truồng như thế không phải là một người giàu có, tên lái đò đã để yên cho Trần Bình. Thế là ông ta đã thoát nạn.

Đôi khi phải chấp nhận một vài nhục nhã, cắt bỏ đi một phần của cái hay ngay cả một phần thân thể, chúng ta mới có thể thoát được hiểm nguy đe doạ đến tính mạng. Trong bất cứ một cuộc di tản nào, để bảo đảm cho mạng sống, đôi khi người ta phải bỏ lại đằng sau nhà cửa, ruộng vườn, tài sản và ngay cả bà con thân thuộc của mình. Chúng ta có một sự sống giá trị gấp bội phần sự sống trên trần gian này. Sự sống ấy đòi hỏi chúng ta phải hy sinh tất cả mọi sự trong cuộc sống tạm bợ này. Lời su đây của Chúa Giêsu đã đánh động không biết bao nhiêu người trong lịch sử nhân loại: “Lời lãi cả thế gian để được ích gì nếu mất linh hồn mình?”.

11. MỘT CÁCH TRUYỀN GIÁO

Tuần báo Midnight-Globe xuất bản tại Hoa Kỳ, gần đây có thuật lại một phương thức làm việc tông đồ của một tín hữu Kitô như sau: mỗi ngày, trừ ngày Chúa nhật, ông Jewel Pierce đều ra bờ sông Coosa, gần chỗ ông ở, tại bang Alabama. Ông ném xuống sông hai chai không, trong đó ông để một mảnh giấy ghi một câu Kinh Thánh nói về tình thương, hay một sứ điệp tương tự, kèm theo đó là ời đề nghị sẵn sàng giúp đỡ tất cả những ai cần đến sự giúp đỡ của ông về tinh thần cũng như vật chất. Những chai không đó được bịt kín lại và theo dòng sông chạy ra biển khơi cách đó 15 cây số.

Trong vòng 40 năm, ông Jewel Pierce đã gởi đi được 27.000 sứ điệp tình thương Kitô như thế, kèm theo địa chỉ của ông. Đã có hơn 2.000 người thuộc 30 quốc gia khác nhau đã viết thư trả lời và rất nhiều người đã đọc được những lời đầy hy vọng của sứ điệp Kitô.

Một vị Giám Mục Việt Nam đã thuật lại chứng từ sau đây: Tại một làng nhỏ ở miền thượng du Bắc Việt, toàn dân làng là người công giáo, nhưng từ 20 năm qua, họ không có linh mục coi sóc. Dù vậy, các tín hữu vẫn tổ chức các buổi đọc kinh và hát thánh ca tại nhà thờ. Đây cũng là nơi họ tổ chức các lễ cưới và rửa tội một cách trọng thể. Dù gặp nhiều khó khăn, nhưng dân làng vẫn sống trong an vui và bình thản.

Tiếng đồn về niềm vui của dân làng này đến tai một làng sơn cước. Do đó, dân làng sơn cước này yêu cầu những người công giáo cho người đến dạy họ các bài kinh và thánh ca để họ cũng tìm được niềm vui.

Nhưng dân làng công giáo không tìm được ai: người lớn thì phải đi làm việc đồng áng, trẻ em thì phải đi học, còn người già cả thì không đủ sức băng rừng leo núi để đến giúp người sơn cước. Chỉ có một người thuộc lòng kinh bổn, thánh ca và biết các nghi thức tôn giáo. Người đó lại là một người mù.

Sau khi bàn bạc với nhau, dân làng sơn cước đã đồng ý sai người dẫn hai con ngựa đi rước người mù. Người tín hữu tàn tật này đã ở lại với dân làng 4 tháng. Cứ mỗi tối, sau khi làm việc trở về, dân làng tụ họp với nhau, nay nhà này, mai nhà khác, để tập đọc kinh và hát thánh ca. Sau một thời gian, người giảng viên giáo lý mù khảo sát và làm phép rửa cho người dân làng đầu tiên. VÀ người tân tòng này lại rửa tội cho những người khác và cứ như thế cho đến người cuối cùng.

Phương pháp làm việc tông đồ của làng công giáo trên đây là phương pháp đơn sơ, nhưng cốt yếu của Kitô giáo: đó là rao giảng bằng chính chứng từ của cuộc sống, nhất là cuộc sống an bình và vui tươi.

12. NGƯỜI NỮ TU KHÓ TÍNH

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu được trao phó cho công việc trông coi một chị nữ tu già bị bất toại. Người nữ tu già này nổi tiếng là một người khó tính trong nhà dòng. Têrêxa phải dìu bà đi từng bước. Một chút thiếu sót cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Bà không một lần nói lên một tiếng cám ơn. Thế nhưng Têrêxa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì thánh nữ yêu mến Chúa và vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến người nữ tu già đáng thương này.

tình yêu đối với Chúa thường không được tỏ hiện bên ngoài. Dấu hiệu bên ngoài của tình yêu mến đối với Chúa chính là: yêu mến tha nhân. Và chúng ta chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân không nhựng bằng lời nói nhưng nhất là bằng hành động, bằng sự nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông.

13. MẶT TRỜI MÚA

Hôm nay 13 tháng 10, là ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra lần thứ 6 cho ba em Lucia, Phanxicô và Giancita tại làng Fatima bên Bồ Đào Nha.

Đây là lần hiện ra có đông đảo dân chúng chứng kiến nhất. Mặc dù thời tiết xấu, ngay từ ngày 12, có trên mười ngàn người Bồ Đào Nha từ khắp nơi trong nước đổ xô về Fatima để chờ đợi phép lạ như Đức Mẹ đã hứa trong các lần hiện ra trước. Người lo lắng nhất trong suốt mấy ngay hôm đó chính là bà mẹ của Lucia. Bà khuyên cô con gái hãy đi xưng tội để nhỡ nếu không có phép lạ xảy ra, thì khi bị giết chết, họ cũng an tâm vì đã xưng tội. Cô Lucia trả lời: Con sẽ đi xưng tội, nhưng không phải vì sợ phép lạ không xảy ra… Đức Mẹ sẽ giữ lời hứa.

Buổi sáng sớm ngày 13/10, người ta đã thấy đám đông đứng phủ đầy ngọn đồi Cova da Iria, nơi Đức Mẹ hứa sẽ hiện đến. Dưới cơn mưa lất phất của những ngày đầu mùa thu, ai cũng cảm thấy lạnh cóng, nhưng đều hiệp ý với nhau trong lời kinh Mâm Côi dâng kính Mẹ. Mọi người đều chăm chú hướng nhìn về ba em bé mục đồng trong y phục rách rưới và bê bết những bùn.

Lucia bắt đầu đọc kinh Mân Côi, bỗng cô hô lớn: “Xin mọi người hãy xếp dù lại”. Với hai em Phanxicô và Giancita, cô ra lệnh: “Hai em hãy quỳ gối xuống, vì Đức Mẹ đang hiện đến”.

Cùng với ba em, nhiều người đã nhìn thấy những vệt sáng trên nền trời. Trong một cái nhìn vừa cảm thông và ưu buồn, Đức Mẹ nói với ba em bé: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi… Ta muốn người ta xây một nhà nguyện tại đây để kính nhớ Ta. Các con hãy tiếp tục lần hạt mỗi ngày”. Và Đức Mẹ cụng hứa sẽ nhận lời cầu xin của một số người mà Lucia đã đại diện trình lên Mẹ. Nhưng Mẹ cảnh cáo: “Đừng xúc phạm đến Chúa nữa, người ta đã xúc phạm quá đỗi rồi”. Nói xong những điều đó, Đức Mẹ chỉ tay về hướng mặt trời… Trong cơn ngây ngất, Lucia đã thốt lên: “Xin mọi người hãy nhìn về mặt trời”.

Lạ lùng thay, ai cũng có thể nhìn thẳng về mặt trời mà không bị loá mắt. Như một bánh xe cuồn cuộn lửa đỏ, ánh thái dương bỗng quay lượn, nhảy múa và toát ra những tia sáng muôn màu sắc. Rồi thình lình, từ trời cao, mặt trời bỗng đổ xuống như một trái bóng da khổng lồ. Trong cơn hốt hoảng, mọi người cảm thấy như mặt trời sắp rơi xuống, ai ai cũng nằm rạp xuống trên bãi cỏ và đấm ngực ăn năn như để chờ đợi giây phút cuối cùng của vũ trụ… Hiện tượng mắt trời nhảy múa và sa xuống mặt đất kéo dài trong 2 phút. Khi mặt trời đã trởi lại trạng thái bình thương, mọi người đều nhận thấy rằng, bãi cỏ ướt đẫm trong cơn mưa bỗng trở nên khô ráo.

Việc Đức Mẹ hiện ra và hiện tượng mặt trời múa đi kèm như được mô tả trên đây, mang nhiều ý nghĩa.

Chính phủ cách mạng tại Bồ Đào Nha vào năm 1917 muốn đánh đổ những thứ mà họ gọi là huyền thoại tôn giáo, cũng như dẹp bỏ mọi thứ cuồng tín. Buồi sáng ngày 13 tháng 10 hôm đó, cả một lực lượng võ trang hùng hậu đã được gởi đến đồi Cova da Iria để ngăn cản mọi cuộc tập họp của dân chúng. Báo chí thì tung ra lời tiên đoán rằng phép lạ sẽ không bao giờ xảy ra và huyền thoại tôn giáo sẽ cáo chung từ hôm đó.

thế nhưng tất cả những sức ép trên đây đã không đánh đổ được lòng tín của người tín hữu.

Phép lạ mặt trời múa vừa là một thể hiện của quyền năng của Thiên Chúa vừa là một lời mời gọi sám hối. Đệ nhất thế chiến đã làm phát sinh nhiều làn sóng vô thần chủ trương tiêu diệt tôn giáo bằng bạo lực. Bên cạnh những chế độ độc tài đang chối bỏ quyền sống của con người, nhiều người cũng buông thả trong đời sống luân lý.

thế giới chỉ có thể cứu vãn được nếu con người biết hoán cải: đó là sứ điệp mà Đức Maria đã không ngừng lặp đi lặp lại tại Fatima. Và phương tiện để giúp con người hoàn cải trước tiên đó là cầu nguyện. Cầu nguyện không những là quay trở lại với Chúa, nhưng còn là một cải đổi tương quan với người anh em.

Lịch sử đang lập lại không ngừng. Quyền sống của con người đang bị chối bỏ nhiều nơi trên thế giới. Con người cũng bỏ và chà đạp chính hình ảnh của Thiên Chúa trong những sa đoạ về luân lý. Đức Maria đang tha thiết kêu mời chúng ta hãy sám hối, siêng năng cầu nguyện với kinh Mân Côi… Đó là phương thế duy nhất để cứu vãn thế giới của chúng ta.

14. LỜI TRĂN TRỐI CỦA NGƯỜI MẸ

Thời cách mạng Pháp, người ta hay nhắc đến một khuôn mặt dữ tợn, chuyên săn lùng các linh mục: đó là đại uý Laly.

Ông đã gia nhập vào đảng Jacobins đi khắp nơi để gieo rắc kinh hoàng cho dân chúng. Nhiều vị linh mục đã kín đáo đến khuyên nhủ để lôi kéo ông ra khỏi tội ác. Nhưng tất cả mọi cố gắng của người khác đều vô ích. Con người độc ác đó chỉ đáp lại bằng lãnh đạm và những lời lẽ thô tục.

Thế nhưng một năm, khi mọi người tưởng như không còn một chút hy vọng, Laly đã lần mò đến một linh mục để xin cưng tôi và hoà giải với Giáo Hội. Sau đó ông đã thú nhận: “Cả đời, ngày nào tôi cũng đọc một kinh Kính Mừng, theo lời trối trăn của Mẹ tôi trước khi chết”.

Có những câu ca dao, có những bài hát, có những bài học làm người, chúng ta tiếp thu ngay khi còn ngồi trên gối mẹ. Trí óc non dại của chúng ta chưa đủ khả năng để lĩnh hội ý nghĩ sâu xa của những bài học đó. Nhưng dần dà với thời gian, khi chúng ta bắt đầu biết suy nghĩ, nhưng bài học đó trồi lên một cách trong sáng trong kiến thức của chúng ta. Có lẽ người mẹ nào cũng hiểu được giá trị của câu: “Dạy con từ thuở còn thơ…”.

Mẹ Maria, hiền mẫu của chúng ta, vừa là một mẫu gương vừa là một nhà giáo dục tuyệt hảo trong đức tin. Lời kinh dâng Mẹ mà chúng ta bập bẹ khi vừa biết nói là bài ca dao đẹp nhất không ngừng ngân vang trong cuộc sống Kitô chúng ta. Có thể, đôi lúc chúng ta cũng ngâm nga một cách máy móc, nhưng Mẹ vẫn có đó và Mẹ vẫn đeo đuổi, ấp ủ chúng ta trong tình yêu bao la của Mẹ.

15. NGƯỜI ĐÀN BÀ “RẤT ĐÀN BÀ”

Hôm nay là ngày kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.

Vị nữ tiến sĩ Hội Thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi Công đồng Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội như một đoá hoa đẹp đẽ nhất giữa những gai gốc đang ụp phủ trên Giáo Hội. Nhưng Têrêxa Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Đẹp, có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình… Têrêxa lại là một người đàn bà “rất đàn bà”. Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều tương phản: thông minh, nhưng lại thực tế; biết nhiều, nhưng không xa vời với kinh nghiêm sống; thần bí, nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.

Têrêxa là một người đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Đã thách thức tất cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn bà yếu đuối này chỉ còn một nơi tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.

Là một người sống cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc sống.

Suốt cuộc đời trải qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, thánh nữ đã thốt lên: “Ôi lạy Chúa, tất cả nhữn gai làm việc cho Chúa đều được đáp trả bằng gian lao, khốn khó. Nhưng cao quí thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của nó”.

Hiện nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ nữ.

Có lẽ tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên hình vào mẫu gương của thánh nữ Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại, nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người đàn bà chỉ có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!

Người nữ có phúc nhất giữa các người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là Đức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng xin vâng. Thiên Chúa đã tạo dựng con người và đã qui định cho con người một định mệnh: định mệnh đó chính là sống cho Chúa. Đức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Chỉ có mộ sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Đức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Đức Kitô.

Trước mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Chúa.

16. XIN CHO CHÚNG CON LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY

Hôm nay là ngày quốc tế về Lương Nông của Liên Hiệp Quốc đề xướng.

Nói đến lương thực, nhất là trong một quốc gia nghèo đói như Việt Nam, có lẽ tự nhiên, ai trong chúng ta cũng nghĩ đến cái đói trên thế giới.

Đói không chỉ là một trạng thái cần ăn uống, nhưng được các chuyên viên về thực phẩm và sức khoẻ định nghĩa như là một tình trạng thường xuyên của một người không đủ ăn để có thể có một cuộc sống lành mạnh. Danh từ chuyên môn thường được dùng để chỉ tình trạng này là dưới mức dinh dưỡng. Nạn nhân dễ thấy nhất của tình trạng này là các trẻ em của những nước nghèo.

Mỗi năm người ta tính có đến 15 triệu trẻ em chết vì nhiều nguyên do có liên quan đến tình trạng thếu dinh dưỡng. Mỗi ngày, trên khắp thế giới, có khoảng 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Số người chết vì đói ăn cũng tương đương với số thương vong nếu cứ 3 ngày một trái bom hạt nhân được ném xuống một vùng đông dân cư.  Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến nạn đói kém. Người ta cho rằng nguyên nhân chính nằm trong chính sách kinh tế, chế độ chính trị, xã hội. Nhưng tựu trung, căn rễ sâu xa nhất vẫn là sự ích kỷ của con người. Nếu một phần mười những người giàu có trên thế giới biết san sẻ cho những người nghèo, thì có lẽ thế giới này không còn có những trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu ngay cả trong một quốc gia, người ta biết dùng tiền bạc để mua cơm bánh cho con người hơn là đầu tư vào khí giới, thì chắc chắn sẽ không còn cảnh người chết đói nữa.

Tại một vài quốc gia kỹ nghệ đang chuyển mình để bước vào cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ ba, người ta thường nói đến kỷ nguyên điện toán, thụ thai trong ống nghiệm… Thế nhưng, tại rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói ăn… Thế giới của chúng ta quả là một thân thể bệnh hoạn. Một nơi nào đó trong cơ thể, một số hận phát triển một cách dư dật, một nơi khác, nhiêu cơ phận đang chết dần chết mòn vì thiếu tiếp tế.

Có lẽ nhân loại của chúng ta không chết đói cho bằng vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương của người đồng loại. Những người dư dật nhưng không biết san sẻ cũng là những người đang chết dần trong ích kỷ. Con người cần có cơm bánh để sống đã đành, nhưng con người cũng cần có tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhân tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống.

Chúng ta phải làm gì để được sống? Dĩ nhiên, chúng ta phải có đủ cơm bánh hằng ngày. Nhưng câu trả lời mà mỗi người Kitô phải tự nói với mình là: để được sống, tôi cần phải làm cho người khác được sống. Đó là sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vì ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.

17. LÒNG NHÂN TỪ CẢM HOÁ

Dưới tựa đề “Lòng nhên từ cảm hoá”, người ta thuật lại một câu chuyện như sau:

Một bà mẹ kia lo lắng nhiều vì đứa con trai không đi nhà thờ nữa, mà lại theo những bạn bè xấu và tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Bà mẹ đau khổ này đã tìm mọi cách để đưa con về con đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Một ngày Chúa nhật nọ, bà nẩy ra một ý tưởng. Gọi đứa con trai lại, bà nói: “Con làm ơn giúp mẹ một chuyện. Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình ở căn nhà trong khu phố đối diện với chúng ta. Nếu con làm giùm mẹ việc này, mẹ hứa sẽ không bao giờ quấy rầy con nữa”.

Có lẽ để khỏi nghe tiếng mẹ giảng dạy, la rầy, chàng thanh niên đã nhận làm điều mẹ anh ta yêu cầu. Anh đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và bỡ ngỡ đến tột điểm, anh đã khám phá thấy một người đàn bà đau ốm chỉ còn da bọc xương với ba đứa con nhỏ, rách rưới, lem luốc, đang than khóc, kêu la vì đói.

Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn nhanh bước rút lui. Nhưng người đàn bà đã gọi giật anh trở lại, và qua giọng yếu ớt bà thều thào: “Cậu ơi! Cậu không thể đi ngay được khi tôi chưa kịp cám ơn cậu. Cậu là ơn quan phòng Chúa gởi đến cho chúng tôi. Xin Ngài trả ơn cho cậu”.

Chàng thanh niên ra về với tấm lòng bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm đau, anh trở lại nhà bà mẹ đang bị đau ốm với đàn con nheo nhóc hôm qua với một gói quà khá dư, mà anh đã mua với chính tiền của anh. Và sau khi trao quà, anh còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ.

Chàng thanh nhiên đã thay đổi cuộc đời, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi ngày một hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và nhờ đó anh cảm thấy hạnh phúc hơn.

Chúng ta đã đi nửa đoạn đường của tháng Mân Côi, đây là khoảng thời gian chúng ta âu yếm dâng lên Mẹ Maria những tràng chuỗi Mân Côi với hằng triệu lời chào: “Kính Mừng Maria, đầy ơn phước”. Nhưng ước gì xen lẫn với những lời kinh tiếng hát, chúng ta cũng biết lắng nghe những lời Mẹ khuyên qua những mầu nhiệm thuật lại các biến cố xảy ra trong cuộc đời Mẹ.

Chú tâm nghe lời Mẹ khuyên nhủ, chắc chắn qua mầu nhiệm thứ hai của năm sự Vui: “Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, ta hãy xin cho được lòng yêu người”. Mẹ Maria, cũng như bà mẹ trong câu chuyện trên, cũng muốn nhờ chúng ta làm cho Mẹ một chuyện: đó là hãy thể hiện lòng yêu người qua những hành động cụ thể để tinh thần phục vụ Mẹ đã thể hiện qua sự giúp đỡ bà chị họ Isave cũng được con cái Mẹ tiếp tục làm lại.

18. LÒNG ĐẦY MIỆNG MỚI NÓI RA

Người ta thường bảo: “Lòng đầy miệng mới nói ra” hay “văn tức là người”. Hai câu nói này có thể áp dụng rất đúng vào vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay: thánh Luca, thánh sử.

chúng ta không có được những sử liệu để biết về cuộc đời của thánh Luca ngoài danh hiệu thánh Phaolô nói về ngài: “Luca, vị y sĩ rất thân mến của chúng tôi…”. Vì thế, chúng ta phải tìm hiểu về con người của thánh Luca qua hai tác phẩm ngài biên soạn, nhất là qua sách Phúc Âm, thường được trao tặng nhựng biệt hiệu sau đây:

  1. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của lòng thương xót: thánh Luca đặc biệt nêu bật lòng ưu ái và sự kiên nhẫn của chúa Giêsu đối với những tội nhân và những kẻ đau khổ. Ngài luôn mở rộng đôi tay để đón nhận họ: những người xứ Samaria, những kẻ bị bệnh phong hủi, những người thu thuế, những kẻ phạm tội công khai, những người nghèo cũng như những mục đồng thất học.

Ngụ ngôn về người phụ nữ phạm tội ngoại tình, về một con chiên lạc, một đồng tiền bị đánh mất, về đứa con hoang đàng và người trộm lành chỉ được ngọn bút của thánh Luca ghi lại rất linh động và xúc tích.

  1. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của ơn cứu rỗi phổ quát và đại đồng: Chúa Giêsu giang rộng đôi cánh tay, chết treo trên thập giá là cho tất cả mọi người. Trong luồng tư tưởng này, Thánh Luca ghi lại gia phả của Chúa Giêsu ngược lại đến nguyên tổ Ađam chứ không phải chỉ ghi Chúa Giêsu là con vua Đavít, con ông Abraham như thánh sử Matthêu. Và trong lúc Chúa Giêsu hoạt động rao giảng Tin Mừng, nhiều người dân không phải là Do Thái cũng được Ngài ân cần tiếp đón và thi ân.
  2. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của những người nghèo, trong đó những người đơn sơ, nhỏ bé, đóng một vai trò quan trõng, như: ông Giacaria và bà Isave, Đức Maria và thánh Giuse, những người mục đồng, ông Simêon và bà goá Anna.
  3. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của sự cầu nguyện và của Chúa Thánh Thần: Luca thường mở đầu một đoạn Phúc Âm với lời ghi nhận “Chúa Giêsu đang cầu nguyện” và Thánh Thần mang Giáo Hội đến chỗ hoàn hảo cuối cùng.
  4. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của niềm vui: thánh Luca thành công trong việc phác hoạ hình ảnh Giáo Hội sơ khai tràn đầy nhiềm hân hoan vì cảm nghiệm được mầu nhiệm phục sinh, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và ơn cứu rỗi.

Mừng lễ kính thánh Luca, chúng ta hãy cùng nhau đọc đoạn cuối của Phúc Âm, gồm những dòng có thể so sánh như chiếc gạch nối liên kết sách Phúc Âm với sách Tông Đồ Công Vụ để diễn tả một sinh hoạt rất quan trọng của Giáo Hội và của mọi tín hữu Kitô: “Đoạn Chúa dẫn các môn đệ đi về phía làng Bêtania. Chúa giơ tay chúc phúc cho họ. Đang khi Chúa phán, Chúa rời khỏi họ mà lên trời. Các môn đệ thờ lạy Chúa rồi trở về Giêrusalem, lòng đầy hân hoan. Họ có mặt luôn luôn trong đền thờ để ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa.

Dõi theo gương của các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn dâng lời ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa.

19. ÔI GIÊSU, ÔI GIÊSU!

Jeanne D’Arc, một cô gái quê, đã nghe theo tiếng gọi từ trời cao để cầm quân đánh đuổi người Anh ra khỏi đất Pháp. Nhờ chiến thắng này, hoàng tử Charles đã được đăng quan làm vua nước Pháp.

Nhưng sau đó trong một trận chiến khác, Jeanne D’Arc bị bại trận, cô bị người Anh bắt giữ vì bị kết án hoả thiêu. Trong những giờ phút cuối cùng cô chỉ còn trơ trọi một mình: người mẹ thân yêu ở cách xa ngàn dặm, vua Charles không muốn bỏ tiền ra để chuộc cô, các tướng lãnh và binh lính đã từng sát cánh với cô cũng bỏ chạy trốn hết. Chỉ còn lại âm thanh lúc nào cũng trung thành với cô: đó chính là tiếng kêu của cô.

Trong cơn đau đớn cùng cực, người thiếu nữ đã lêu lớn: “Ôi Giêsu, ôi Giêsu!”. Quả thật, dù lòng người có bội bạc phôi pha, Chúa Giêsu vẫn luôn ở với cô và luôn an ủi đỡ nâng cô.

Tin tưởng là tiếp tục yêu mến cho dù trong từng phút giây ta có bị người đời bỏ rơi, phản bội. yêu là tin rằng ta có thể trung thành trước những bất trung của người khác và những thăng trầm của cuộc sống. Chúng ta đứng vững trong niềm tin vì cho dù xung quanh ta không còn một bóng người, Thiên Chúa vẫn luôn ở đó.

20. LÀM TRAI CHẾT Ở BIÊN THUỲ

Gần một thế kỷ trước Chúa Giáng sinh, một danh tướng nhà Đông Hán tên là Mã Viện đã nói một câu bất hủ: “Làm trai nên chết ở chốn biên thuỳ, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, chứ nằm xó giường mà chết trong tay người nâng đỡi thì còn xứng đáng gì”.

Tại thành Sparte thuộc Cổ Hy Lạp, mỗi khi tiễn con ra trận, người mẹ thường đưa cho con một cái mộc và bảo con rằng: cùng với nó hay nằm trên nó. Cùng với nó, con đắc thắng trở về. Nằm trên nó, xác con được mọi người kính nể khiêng vác trên vai.

Người Kitô chúng ta cũng đã nhận lấy một chiếc mộc. Đó là chiết mộc của bí tích Rửa tội. Qua cửa ngõ của bí tích này, chúng ta như được gởi ra chiến trường.

Cái chết từng ngày là điều đang chờ đợi chúng ta. Nhưng cái chết đó là con đường dẫn đến vinh quang phục sinh. Đức Kitô, vị thủ lãnh của chúng ta, đã đi qua con đường ấy. Ngài cũng đang có mặt trong cuộc chiến của chúng ta để dìu dắt chúng ta trong từng phút giây. Nếu có một lúc nào đó, chúng ta chán nản muốn đào ngũ và bỏ cuộc, chúng ta hãy nhìn lên thập giá của Ngài. Thập giá đó phải là ánh sáng soi dẫn những đoạn đường tăm tối trong cuộc chiến của chúng ta.

21. HAI CHA CON VÀ CON LỪA

Một trong những câu chuyện ngụ ngôn mà người Mỹ thường kể cho con cái nghe nhất đó là câu chuyện “Hai cha con và con lừa”. Có hai cha con dắt con lửa ra chợ bán. Cha ngồi trên lưng lửa, con đi bộ theo sau. Người bên đường thấy thế bèn nói: “Cha gì mà không biết thương con! Ngồi chỗm chệ trên lưng lừa, trong khi con phải đi bộ”. Nghe vậy, người cha bèn nhảy xuống khỏi lưng lừa và nhường cho con cỡi lửa. Đi một chốc, hai cha con lại nghe người hai bên đường chỉ trích: “Đồ con bất hiếu, ngồi ung dung trên lưng lừa, trong khi cha lại đi cuốc bộ”. Nghe như vậy, hai cha con mới bảo nhau: “Chỉ còn một cách để cho thiên hạ khỏi nói là hai ta cùng cỡi lửa”.

thế là hai cha con leo lên lưng lừa. Nhưng đi được một quãng họ lại bắt đầu nghe một lời phê bình khác: “thật là đồ vô nhân đạo! Làm sao con lửa có thể chịu đựng cả một sức nặng như thế”.

Nghe thế, hai cha con lại vội nhảy xuống khỏi lưng lừa. Lần này thì cũng có người phê bình: “Đồ dại dột, có lửa mà không dám cỡi lại phải đi bộ”. Hai cha con không biết nghĩ sao, đành phải nai lưng khiêng con lừa đến chợ.

Đôi khi chúng ta cũng bị ảnh hưởng rất nhiều vì những lời khen chê của thiên hạ. Dĩ nhiên chúng ta cần phải biết lắng nghe những ý kiến xây dựng của những người có thiện chí muốn giúp đỡ chúng ta. Tuy nhiên chúng ta không nên để mình bị “rung động” bởi những lời dèm pha thiếu nền tảng của người khác.

Trong Giáo Hội cũng có những người mắc phải chứng bệnh thích chỉ trích phê bình người khác. Họ quên rằng mình cũng chỉ là những con người đầy khiếm khuyết. Họ là những gai nhọn hoặc dấm chua tron Giáo Hội. Sự hiện diện của họ thường gây sứt mẻ hơn là góp phần xây dựng Giáo Hội trong tình yêu thương và hiệp nhất.

22. HÒN VỌNG PHU

Giữa Nha Trang và Tuy Hoà, khoảng xa lộ 21 và sông Hinh, gần quận Khánh Dương có một ngọn núi tên là Vọng Phu, có nghĩa là trông đợi chồng.

Theo tục truyền trong dân gian thì thuở xưa có một gia đình sống hạnh phúc ở gần chân núi. Khi giặc giã nổi lên ở biên thuỳ,người chồng theo lệnh vua, tòng quân ra ngoài biên ải để chống quân thù, để lại người vợ trẻ và một đứa con đang còn bú móm. Người vợ trẻ ở nhà chờ chồng, mỗi ngày bế con trèo lên ngọn núi ngóng về phía biên cương xem có dáng chồng trở về hay không. Thời gian trôi qua nhưng đoàn quân chưa thấy về, người vợ và đứa con chờ đợi mãi hoá thành đá. Người đời biết chuyện nên gọi đó là hòn Vọng Phu.

Có lẽ đây chỉ là một ngọn núi được cấu tạo bởi nhiều loại đá khác nhau. Theo thời gian, mưa gió soi mòn loại đá mền, để lại hình dạng mường tượng như một người bồng con ngồi trông ra phía biển. Người dân ta đa sầu đa cảm, lại thêm cảnh nước luôn loạn ly, đã mượn hình dạng của núi để diễn tả tâm sự trông đợi chồng của người thiếu phụ Việt Nam.

Điều làm cho xao xuyến cảm động ở đây là lòng chung thuỷ của một thiếu phụ, dù đói no, đau yếu hay mạnh khoẻ, vẫn trước sau một lòng thương yêu chồng, xem chồng như là lẽ sống của cuộc đời.

Rung động trước dạ trung kiên của người thiếu phụ Việt Nam qua hình ảnh hòn Vọng Phu, chúng ta không khỏi không cảm động trước tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Dù núi dời, dù đồi chuyển, dù con người có bội bạc phôi pha, Thiên Chúa vẫn luôn chung thuỷ trong tình yêu của Người. Càng thấm thía tình thương của Chúa, chúng ta càng cảm thấy Người là lẽ sống và là tất cả của cuộc sống

23. CÙM CHÂN CHÓ

Sách Lã Thị Xuân Thu có chép một câu chuyện như sau: Nước Tề có người xem tướng chó rất giỏi. Một người hàng xóm tới nhờ anh ta tìm cho một con chó biết bắt chuộc. Ít lâu sau, anh mang đến một con chó và nói: “Con chó này tốt lắm, ông cứ dùng sẽ vừa ý”.

Người hàng xóm tin theo, nhưng mấy năm qua, con chó không bắt được con chuột nào cả. Người hàng xóm phàn nàn, anh ta liền nói: “Con chó này tốt nhưng nó chỉ có tài săn bắt hưu nai, bây giờ muốn nó bắt chuột thì phải buộc chân sau nó lại”. Người hàng xóm đã nghe theo và quả nhiên con chó bắt chuộc rất hay.

cò cùm một chân lại, con chó mới có thể bắt được chuột. Phải chăng đó không là hình ảnh của rất nhiều người thành công trong những địa hạt lớn, trong những công tác xã hội, trong những việc làm ở quy mô lớn, nhưng lại thất bại tron gia đình hay trong chính cuộc sống cá nhân của mình. Người ta nghĩ rằng chỉ có những công việc vĩ đại mới có giá trị. Người ta phân bua rằng việc trong nhà, việc ở xó bếp là việc của đàn bà.

Thế nhưng có ai nghĩ rằng hạnh phúc của gia đình tuỳ thuộc rất nhiều vào những công việc xó bếp ấy. Và những công việc vô danh ấy cũng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhẫn nhục và tình yêu hơn tất cả những đại cuộc khác. Công việc càng nhỏ nhặt, càng vô danh thì càng nhiều phiền toái và càng đòi hỏi nhiều phấn đấu hơn. Nếu không biết cùm lấy một chân, nếu không biết hy sinh, nhẫn nhục, một người mẹ trong gia đình không thể chịu đựng năm kia qua tháng nọ tất cả những phiền toái ấy.

24. NGÀY LIÊN HIỆP QUỐC

Vào năm 1945, ba quốc gia gây chiến: Đức, Italia, Nhật mang bộ mặt tan nát tả tơi của những nước bại trận. Đa số những thành phố lớn tại Đức, cũng như hai thành phố Siroshima và Nagasaki tại Nhật chỉ còn là những đống gạch vụn, những thành phố chết.

Hình ảnh của thế giới, nhất là tại các quốc gia bị chiến tranh tàn phá trong những năm “39,45” có lẽ không khác gì bộ mặt của trái đất sau trận lụt Đại Hồng Thuỷ, khi trận lụt vĩ đại gây ra do những trận mưa lũ kéo dài 40 đêm ngày đã giết hại mọi sinh vật, như tác giả sách Khởi Nguyên viết: “Mọi loài xác thịt động đậy trên đầu đều tắt thở:chim chóc, thú vật, mãnh thú… tất cả các vật trên cạn đều bị xoá sạch trên mặt đất từ người cho đến súc vật, côn trùng và chim trời…”.

Từ đống tro tàn của thế chiến thứ hai, một ý nghĩ đã được manh nha và Liên Hiệp Quốc đã thành hình với mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hoà bình. Vì như một chính trị gia đã phát biểu: “Nếu con người không huỷ diệt chiến tranh,chiến tranh sẽ huỷ diệt con người”.

Nhưng từ ngày tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập vào năm 1945 đến nay không biết bao nhiêu cuộc chiến song phương cũng như nội bộ đã xảy ra. Những bàn tay con ngời vẫn được dùng để giơ gươm, để lảy cò, để bấm nút những khí giới giết người. Vì thế súng vẫn nhả đạn và máu tươi vẫn tuôi rơi, lòng đất mẹ vẫn thấm máu con người.

Ngày 24 tháng 10 hằng năm, bao nhiêu là cơ của mọi quốc gia đã được trưng lên trong những buổi lễ kỷ niệm ngày Liên Hiệp Quốc được thành lập, bao nhiêu sinh hoạt đã được tổ chức để nhắc nhở con người, không phân biệt màu da, tiếng nói, không phân biệt tín ngưỡng hay quan niệm về thể chế chính trị, ý nghĩa của tổ chức mang mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hoà bình.

Nhưng thiết nghĩ, hoà bình thế giới không thể được thiết lập nếu lòng người chưa đạt được sự an bình, vì nếu những tâm tình ganh ghét, ghen tương, nghi lỵ, nếu những tư tưởng lợi dụng, đàn áp, bóc lột vẫn còn âm ỉ cháy trong lòng chúng ta, thì ngọn lửa chiến tranh vẫn còn có thể bùng cháy bất cứ lúc nào.

25. CON CHIM SÁO

Trong một tập thơ mang tựa đề “Có muôn nghìn lý do để sống”, Đức Cha Helder Carmera, vị Giám Mục người Brazil nổi tiếng là vị tông đồ của người nghèo đã ghi lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây: Bên cạnh nhà tôi, có một con chim sáo quanh năm ngày tháng sống giữa trời… Tôi vẫn có thói quen nói chuyện với nó. Một hôm, tôi hỏi chú sáo có nơi ngủ nghỉ không. Nó ngạc nhiên trả lời: “Có chứ…! Màn là trời, chiếu là đất. Có bao giờ thiếu đâu”.

do những đòi hỏi của trí khôn loài người, tôi mới hỏi nó: “thế thì những lúc mưa gióm chú trú ngụ ở đâu”. Nó nhanh nhẩu trả lời: “Bộ ông nghĩ là thỉnh thoàng tôi không cần tắm gội sao?”. Tôi hỏi nó có đói không? Con chim chỉ mỉm cười đáp: “Điều tôi muốn là được hót. Tôi sinh ra để hót mà…”. Và nó cất tiếng hót như sau: “Hỡi loài người kiêu ngạo. Hãy nói cho ta biến đi:liện ngươi không chết sao?”.

Tôi cứ nài nỉ để chú sáo nhậm món quà tôi biếu: đó là một ít bánh mì có thịt… Chú sáo lại được dịp cười cựt sự ngây ngô của tôi. Nó bảo tôi: “Ông không biết là loài sáo chúng tôi không có ăn bánh mì và thịt như các ông sao?”.

Lần kia,tôi hỏi chú sáo có cầu nguyện không. Nó không hiểu được câu hỏi của tôi. Nó chỉ cười trả lời: “Có mấy chú nhóc con lấy đá ném tôi. Nhưng tôi bay đi, tôi cười và tôi hót”.

Một lúc nào đó, tôi có ý nghĩ đưa con sáo vào bệnh viện để nhờ các bác sĩ tìm ra căn bệnh của nó và chữa trị cho nó. Nhưng tôi chợt nhận ra rằng nó chỉ là một con chim.

Qua câu chuyện ngụ ngôn trên đây, có lẽ Đức Cha Helder Camera muốn gợi lên cho chúng ta cái thảm trạng của con người ngày nay: chiến tranh chết chóc, đau khổ đều phát xuất từ chỗ con người không chấp nhận nhau. Ai cũng muốn người khác phải suy nghĩ như mình, phải hành động như mình,phải sống như mình. Ý thức hệ nào cũng tự cho là ưu việt và muốn áp đặt trên người khác ngay cả bằng bạo lực.

Ngày nay,k con người mỗi lúc một ý thức hơn về sự đa diện của các nền văn hoá, của các khuynh hướng chính trị, của các tôn giáo… Sự trưởng thành của nhân loại được thể hiện qua chính sự chấp nhận ấy: chấp nhận sự khác biệt của tha nhân, chấp nhận tư tưởng của người khác. Khoan dung là thái độ mà con người ngày nay đang cần hơn bao giờ hết.

26. XIN CHO ĐƯỢC THAY ĐỔI CHÍNH CON

Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời của mình như sau: Lúc con trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.

Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày,nhất là gi đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.

Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa,xin ban cho con ơn được thay đổi chính con.

Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.

Người xư đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc sống cách mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết.

Một nhà cách mạng nào đó đã nói: chỉ cân 10 người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự đó là cách mạng bản thân.

Chúa Giêsu đã chuẩn bị 3 năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngay ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của ngài là: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.

Ai trong chúng ta cũng biết câu châm ngôn: Thà thắp lên một ngọn đèn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Nếu mỗi người, ai cũng đốt lên ngọn đèn của mình, nếu mỗi người, ai cũng đóng góp phần ít ỏi, nhỏ mọn của mình, thì có lẽ thế giới này sẽ bớt lạnh lẽo hơn vì lòng ích kỷ… Không ai nghèo đến nỗi không có gì để cho người khác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng món quà nhỏ mọn,có khi vộ danh của chúng ta. Một giọt nước nhỏ là điều không đàng kể trong đại dương, nhưng nếu không có những giọt nước nhỏ kế tụ lại, thì đại dương kia cũng chỉ là sa mạc khô cằn.

27. BẤT NGỜ

Như một chuyện khó tin mà có thật: đó là chuyện của một chàng thanh niên Tây Đức một mình lái chiếc Cessna cánh quạt nhỏ, vượt qua hành lang 400 dặm trên lãnh thổ Liên Xô, rồi an toàn đáp xuống quảng trường Eò, gần điện Cầm Linh… Trước khi đáp xuống vào lúc 7 giờ tối, phi cơ còn lượn 3 vòng chung quanh mộ của chủ tịch Lênin.

Người thanh niên Tây Đức tên là Matthias Rust này đã điềm tĩnh bước ra khỏi phi cơ, ký sổ lưu niệm cho một số khách hiếu kỳ và khâm phục. Sau đó, công an Liên Xô đã đến tóm cổ anh đưa đi mất.

Trong suốt một cuộc hành trình dài anh chỉ bị phi cơ tuần thám của Liên Xô theo dõi mà không làm cản trở. Có thể họ cho phi cơ của canh định làm chuyện kỳ lạ khác người cho nên không bắt anh đáp xuống nửa đường. Phi cơ lại bay rất thấp cho nên đã tránh được sự kiểm soát của các dàn radar. Dù sao đây cũng là một chuyện khó tin chưa từng xảy ra trên một lãnh thổ có một hệ thống phòng thủ chặt chẽ như Liên Xô.

Sự thành công của chiếc phi cơ nhò này đã khiến cho nhà cầm quyền Liên Xô e ngại và giật mình về sự phòng thủ sơ sót của mình. Sau một cuộc họp khẩn cấp của Bộ Chính trị, tổng tường quốc phòng và bộ trưởng không quân đã bị cách chức. Tron khi đó thì chủ tịch Gorbachov lại nói một câu khôi hài như sau: “Chúng ta phải cám ơn chàng thanh niên Tây Đức này vì nhờ có anh ta mà chúng ta mới cải tổ hệ thống phòng thủ của chúng ta chặt chẽ và cẩn thận hơn”.

Nhiều người đã xem lời phát biểu trên đây phản ảnh tinh thần phục thiện và cởi mở của chủ tịch Gorbachov.

Sự thành công của chàng thanh niên Matthias Rust khi đáp xuống quảng trường Đỏ có thể được xem như là một tai nạn trong hệ thống phòng thủ của Liên Xô.

Tai nạn là một bất ngờ mà con người không bao giờ lường trước được… Không ai học được chữ ngờ trong cuộc sống. Có một cái gì đó luôn ở ngoài tầm tay, ở ngoài khả năng của con người. Bài học thông thường nhất mà ai cũng có thể học được từ một tai nạn: đó là không ai làm chủ được chính sự sống của mình.

Người Kitô luôn được mời gọi để tìm ra ý nghĩa của các biến cố. Biến cố này xảy đến trong cuộc sống cũng là một lời ngỏ của Thiên Chúa đối với con người. Ngài nhắc nhở cho con người biết rằng chủ tể của sự sống chính là Ngài. Ngài kêu mời con người luôn sẵn sàng để đến với Ngài trong cuộc gặp gỡ tối hậu. Ngài cho con người thấy những giới hạn của mình để biết hướng về Ngài với tất cả tin tưởng phó thác.

28. CHIẾC XE CUỘC ĐỜI

Cách đây hơn một trăm năm, khi đường sắt vừa mới được phát minh, nhu cầu đi lại mỗi lúc một bành trướng, một văn sĩ nọ, trong quyển lịch sử của xe lửa và đường sắt, đã ghi ra một số chỉ dẫn cho hành khách. Trong một chương có tựa đề “Những lời khuyên trước khi lên đường”, ông đã đưa ra vài căn dặn như sau: “Trước khi bắt đầu một cuộc hành trình, hành khách nên quyết định: mình sẽ đi đâu, sẽ lên chuyến xe lửa nào và ở đâu, tại nơi nào sẽ đổi tàu…

Trong một đoạn khác, ông nhắn nhủ hành khách như sau: khuyên quí khách nên mang theo càng ít hàng lý bao nhiêu càng tốt… Riêng với các bà, các cô, không được phép mang theo quá ba hành lý và năm gói nhỏ”.

Những lời khuyên trên đây xem chừng như không có chút giá trị nào đối với hệ thống đường sắt hiện tại ở Việt Nam. Chen chúc nhau để có được một chỗ ngồi thích hợp,đã là quá lắm rồi, còn chỗ đâu để xác định số hành lý phải mang theo.

Nhưng dù thanh thản trong một con tàu đầy tiện nghi, hay chen chúc nhau trong một wagon chật hẹp bẩn thỉu, mỗi khi bước vào xe lửa, ai trong chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nghĩ đến chuyến đi của cuộc đời… Đời cũng là một chuyến đi.

Bước lên chiếc xe lửa của cuộc đời, ai trong chúng ta cũng được mời gọi để chuẩn bị cuộc hành trình bằng một số câu hỏi cơ bản: tôi sẽ đi về đâu? Tôi phải mang những gì cần thiết cho cuộc hành trình?

Trên một số tuyến đường liên tỉnh tại Phi Luật Tân, thỉnh thoảng hành khách có thể đọc được một bảng hiệu có thể làm cho họ phải giựt mình suy nghĩ: có thể đây là chuyến đi cuối cùng của bạn. Thật ra, ít có ai khi lên đường, lại có ý nghĩ ấy. Có lẽ người ta nghĩ đến công việc, nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những thú vui đang chờ đợi hơn là phải dừng lại với ý nghĩa của một cái chết bất ngờ.

Thái độ khôn ngoan nhất mà Chúa Giêsu thường lặp lại trong Tin Mừng của Ngài: đó là “Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào, ngày nao”. Con người sinh ra để chết. Nói như thế không hẳn là một phát biểu bi quan về cuộc đời, mà đúng hơn là một cái nhìn trong suốt về hướng đi của cuộc đời.

Giá như ai trong chúng ta cũng biết rằng: công việc ta đang làm trong giây phút này đây là công việc cuối cùng trong cuộc đời, thì có lẽ mọi việc đều có một ý nghĩa và một mục đích khác hẳn.

29. CÁC ÔNG LÀ QUÁI VẬT

Cuốn phim E.T. (nghĩa là người đến từ bên ngoài trái đất) đã là khởi đầu cho những giả thuyết về sự hiện hữu của nhiều giống người khác trên các hành tinh. Chúng ta hãy thử tưởng tượng một ngày nào đó những người này đến viếng thăm trái đất của chúng ta. Có lẽ họ sẽ phải học hỏi rất nhiều nơi chúng ta. Họ sẽ nghiên cứu về các tôn giáo hiện hữu trên mặt đất. Họ sẽ tra cứu mọi thứ triết thuyết và mọi lẽ khôn ngoan cũng như bao cái điên rồ của con người… Sau cùng họ sẽ điều tra về những người Kitô và khám phá ra rằng thủ lãnh dủa họ là Giêsu Kitô… Chúng ta hãy thử tưởng tượng cuộc đối thoại giữa họ và những người Kitô.

– Ông Giêsu Kitô là ai? Một người Kitô sẽ trả lời: Ông là một người Do Thái, ông đã được muôn dân trông đợi từ ngàn xưa. Ông đến như một vị tiên tri để cứu thoát trần thế.

– Thế nhưng họ đã làm gì với ông ta?

– Thưa, họ đã đóng đinh ông vào thập tự.

Và một người trong cuộc đối thoại sẽ thêm: “Phải, có lẽ ông ta đã không đến đúng lúc. Giả như ông đến bây giờ đây, thì mọi sữ có lẽ sẽ khác… Người ta sẽ thông cảm với ông, sẽ yêu mến ông và như vậy, tình huynh đệ đại đồng như chúng ta hằng mong ước sẽ được thực hiện… Thực là đáng tiếc, ông Giêsu đã đến không đúng lúc. Thật là một tai nạn đáng tiếc”.

Một người Kitô khác có lẽ sẽ phản đối: “tôi không đồng ý. Chúa Giêsu có đến lúc nào và ở đâu, thì mọi sự cũng sẽ diễn ra như thế thôi”. Theo dõi cuộc đối thoại, không chừng người đến từ hành tinh khác sẽ phát biểu: “Vậy thì các ông là những quái vật”.

Có lẽ giống người của chúng ta trên mặt đất này là những quái vật. Và chính vì thế mà Chúa Giêsu đã đến để cứu độ chúng ta. Ngài đã yêu thương chúng ta. Ngài đã thể hiện lòng nhân từ đối với chúng ta, bởi vì chúng ta là những quái vật.

Chúng ta hãy thử nhìn vào các giống vật đang chia sẻ sự sống với chúng ta trên mặt đất này. Chúng nó có thể cắn xé những con thú khác không thuộc dòng giống của nó. Nhưng chúng nó không bao giờ giết hại cắn xé lẫn nhau. Còn giống người của chúng ta thì sao?

Nhưng thập giá của Đức Kitô không chỉ là một mặc khải về tính cách quái vật của con người, nó còn là một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Đó là dấu chỉ của tình yêu, của hoà bình.

Người Kitô mang trên người, vẽ trên người, dấu thập giá để ca tụng tình yêu của Thiên Chúa cũng như để nói lên thiện chí xây dựng hoà bình của họ.

Ước gì dấu thánh giá chúng ta làm mỗi ngày sẽ luôn nhắc nhở cho chúng ta về tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa cũng như mời chúng ta không ngừng xây dựng hoà bình với tất cả những người xung quanh.

30. VIẾN ĐÁ QUÍ

Edith Stein, đó là tên của một người đàn bà mà chúng ta thường nghe nhắc đến nhiêu lần nhân chuyến viếng thăm lần thứ hai của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại Tây Đức năm 1987.

Stein, theo tiếng Đức có nghĩa là đá. Đây không phải là một viên đá tầm thường, nhưng là một viên ngọc quí đã được tôi luyện giữa lò lửa của hận thù, chiến tranh. Viên ngọc quí Stein đã được gọt đẽo và nung nấu trước tiên trong sự dửng dưng vô tôn giáo của những trào lưu tục hoá sau đệ nhị thế chiến.

Lên 14 tuổi, Edith Stein đã mất hoàn toàn niềm tin vào Thiên Chúa của tổ phụ Abraham. Nhưng cho dù con người có chối bỏ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đeo đuổi con người. Cuộc săn đuổi kỳ diệu ấy đã đưa con người đến ngõ cụt của cuộc sống. Nhưng chính khi đứng trước bức tường tưởng chừng như không thể vượt qua được, Thiên Chúa đã đưa cánh tay của Ngài ra để nâng con người lên. Đó là điều đã xảy ra cho Edith Stein khi cô chứng kiến gương kiên nhẫn chịu đựng của một người thiếu phụ Công giáo. Chiến tranh đã cướp đi người chồng thân yêu, người đàn ấy vẫn lấy đức tin vào Chúa Kitô để vượt thắng mọi đau khổ, thử thách…. Edith Stein thú nhận: Thập giá của Đức Kitô đã đem lại sức mạnh kiên hùng cho người phụ nữ và do đó, cũng phá vỡ bức tường cứng lòng tin của cô.

Trong ánh sáng của thập giá Đức Kitô, Edith Stein đã tìm lại được niềm tin vào chính Thiên Chúa của người Do Thái… Nhưng ánh sáng đó đã gắn liền với cả cuộc đời còn lại của cô như một định mệnh. Giữa những đổ vỡ và tàn ác của chiến tranh, Edith đã tìm lại được định hướng cho cuộc đời. Thánh Giá đã được gắn liền với tên cô từ đó: Terêxa Benedicta Della Croce, Têrêxa được thập giá chúc lành.

Thập giá của Đức Kitô mà cô đã vác lấy qua cái chết đau đớn trong lò hơi ngạt tại trại tập trung Auschwitz đã biến cô trở thành một viên ngọc quí có giá trị cứu rỗi cho cả một dân tộc mà cô hằng yêu mến.

Ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá. Đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiếng bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá… Tại sao Thiên Chúa đã để cho người phải đau khổ? mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ. Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề.

Trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống. Mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết. Mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng.

31. MỘT NGÀY ĐỂ NHỚ ĐẾN THẦN DỮ

Hôm nay ngày cuối tháng 10. Buổi chiều ngày cuối tháng 10 được người Mỹ và các nước chịu ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, nghĩa là vọng lễ các thánh.

Có lẽ do những rơi rớt còn lại của một ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời những người Celtic trước Công nguyên, ngày vọng lễ các thánh mang màu sắc ảm đạm ma quái.

Trong các cửa tiệm, hàng hoá được trưng bày trong một khung cảnh quái dị: những hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xoá giăng mắc khắp nơi, các đồ chơi trẻ em cũng được khoát lên những nét kinh hãi quái dị. Trên màn ảnh của truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị. Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe chuyện ma quái.

Phải chăng mỗi năm người ta dành một ngày để nhắc nhở về sự hiện hữu và tác quái của thần dữ? Nhưng liệu con người ngày nay còn ý thức được tội lỗi và sự tác động của thần dữ không?

Thi sĩ Baudelaire của Pháp đã có lần nói: “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng nó không hiện hữu”.

Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Kinh Thánh nói đến chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay khoa học có thể tìm ra nguyên nhân. Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào đã loại trừ ma quỷ ra khỏi cuộc sống.

Có lẽ ngày nay, người ta ít có dịp chứng kiến những vụ quỷ ám nhãn tường như Kinh Thánh đã ghi lại. Tuy nhiên, dù muốn dù không, không ai có thể chối cãi được một sức mạnh luôn cày xéo tâm hồn con người, luôn lôi kéo con người đến chỗ tự huỷ và huỷ diệt lẫn nhau. Mãi mãi câu nói của thánh Phaolô vẫn đúng cho kinh nghiệm của mỗi người: “Điều thiện tôi muốn làm thì tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm, thì tôi lại làm”. Có một sức mạnh vô hình nào đó luôn khuyến dụ, luôn lôi kéo con người vào tội ác… Thánh Phêrô hẳn không thể nào quên được lời cảnh cáo của Chúa Giêsu: “Hỡi Satan, hãy tránh khỏi mặt Ta”. Trong lá thư đầu tiên gởi cho các tín hữu, vị Giáo Hoàng đầu tiên đã nhắn nhủ: “Hãy tỉnh thức luôn. Kẻ thù của anh em là ma quỷ như sư tử luôn gầm thét lượn quanh, tìm mồi để cắn xé. Anh em hãy chống cự và kiên vững trong đức tin”.

Là người tín hữu, chúng ta không ngừng cầu nguyện bằng chính lời kinh của Chúa Giêsu: “Xin cứu chúng con khỏi ác thần”. Ước gì lời kinh ấy luôn nhắc nhở chúng ta về sự tác động liên lỉ của ma quỷ trong cuộc sống của từng người chúng ta. Nhưng chúng ta không phải hãi sợ bởi vì chúng ta không chiến đấu một mình mà cùng với và bằng chính sức mạnh của Đấng đã nói: “Đừng sợ hãi, vì Ta đã thắng thế gian”.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *