Suy Niệm Lẽ Sống Tháng 6
1. CON NGƯỜI KHỜ KHẠO
Một cuốn phim Pháp với tựa đề “Gigot”, đã kể lại cuộc đời cao thượng nhưng vộ cùng đáng thương của một người câm tên là Gigot. Đúng như cái tên có thể gợi lên, Gigot là một người khờ khạo nhưng có một tâm hồn cao quí. Ngày ngày anh quét đường, kiếm từng đồng su nhỏ để mua những mẩu bánh mì vụn sống quan ngày. Nơi trú ngụ của anh là một cầu thang bẩn thỉu nằm bên dưới một ngôi nhà. Những người bạn duy nhất của anh lá các chú chó và một don mèo hoang. Hằng ngày, từ tiệm bánh mì đi ra, anh đều mang theo thức ăn cho chúng. Anh đi đâu, chúng quấn quít bên người đó… Những con thú thương anh như một người bạn, nhưng những người đồng bào của anh chỉ nhìn anh như một trò đùa. Mỗi khi cần có một trận cười, người ta gọi Gigot đến cho anh uống rượu để anh có thể nhảy múa trong cơn say và làm trò hề cho họ.
Một đêm nọ,sau khi đã say luý tuý và làm đủ thứ trò hề cho thiên hạ cười, Gigot đi ngã nghiêng về nhà giữa cơn mưa. Anh bắt gặp một người đàn bà và một đứa con gái nhỏ đang nằm co ro trong góc hè phố, minh mẩy ướt như chuộc lột. Anh dìu hai mẹ con người đàn bà về nhà mình và dọn chỗ cho họ qua đêm. Trong những ngày kế tiếp, anh tìm đủ mọi cách để làm cho người đàn bà được hạnh phúc và cô bé được vui cười. anh đưa cô bé đến nhà thờ và dùng thứ ngôn ngữ câm của mình để nói với nó về Chúa Giêsu… Một hôm, người mẹ muốn đi nơi khác vì không chịu nổi cảnh thiếu thốn trong căn nhà của anh. Người câm không biết làm gì hơn là đành phải đến hiệu bánh mì quen biết để đánh cáp một số tiền. Với số tiền ấy, anh đã có thể sắm sửa tươm tất cho hai mẹ con người đàn bà…
Thế nhưng,một hôm, khi thức giấc, anh không còn thấy người đàn bà trong căn gác của mình nữa. Anh đưa cô bé vào sâu trong cầu thang và làm trò đùa cho nó cười. Vô tình, căn gác đổ nát sụp xuống trên anh và đứa bé. Anh vừa mang đứa bé đến nhà thờ để xin cha sở chạy chữa, thì người ta cũng phát giác ra sự mất tích của nó… Người ta tri hô lên anh là thủ phạm bắt cóc đứa bé. Cuộc săn đuổi đã làm anh trượt té xuống một dòng sông… Một chiếc phà chạy qua. Chiếc mũ của anh trồi lên. Mọi người tưởng rằng anh đã chết chìm giữa dòng sông… Sự cảm thông và thương tiếc bỗng bừng dậy, người ta lấy chiếc mũ của anh, đạt lên một quan tài và cử hành nghi lễ tống táng. Người người sụt sùi khóc. Bao nhiêu bài điếu văn được đọc lên để ôn lại tấm lòng cao tượng của người quá cố… Nhưng từ một chòm cây trong nghĩa địa, Gigot lắng nghe tất cả, anh bật thành tiếng khóc, khóc vì sự cảm thông quá muộn màng của người đồng loại, mà có lẽ cũng khóc khi nghĩ đến thân phận của anh.
Hôm nay chúng ta bước vào tháng dành riêng để tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu… Có riêng một tháng để nhắc nhớ cho con người về tình yêu của Thiên Chúa, bởi lẽ con người không hiểu mà cũng dễ quên tình yêu của Thiên Chúa…
Thiên Chúa cũng giống như một người tình cảm. Ngài làm mọi sự và tìm đủ mọi cách để cho con người hiểu được tình yêu của Ngài. Không còn ngôn ngữ nào nữa, Thiên Chúa đành phải dùng chính cái chết, bởi lẽ không có tình yêu nào trọng đại cho bằng mối tình của người chết vì người mình yêu…
“Chúng sẽ nhìn xem Đấng chúng sẽ đâm thâu qua”. Qua cái chết của Đức Kitô trên thập giá, con người mới có thể thấy được tình yêu của Thiên Chúa đối với mình. Cái chết là ngôn ngữ cuối cùng của tình yêu. Mối tình câm lặng nhất đã được bày tỏ…
2. NGUỒN GỐC CỦA SA MẠC
Người Á Rập giải thích về nguồn gốc của sa mạc bằng câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
“Thiên Chúa đang sáng tạo vũ trụ. Sau khi đã hoàn tất tinh tú, trái đất biển khơi, sông ngòi, thiên Chúa bắt tay vào việc tạo dựng con người. Ngài nắn được những thân hình đẹp, nhưng đó chỉ là những pho tượng, vì chưa có linh hồn”.
Lúc bấy giờ, một tổng lãnh thiên thần mới đề nghị với Thiên Chúa là cần phải tạo dựng linh hồn cho con người. Thế là Thiên Chúa miệt mài giam mình trong phòng thí nghiệm để tác tạo linh hồn cho con người. Các linh hồn mới ra khỏi lò còn rất mảnh khảnh và yếu ớt.
Ngài mang các linh hồn tươi tắn ấy xuống trần gian và phân phát cho loài người. Nhưng rủi thay, hôm đó trời đổ mưa, cho nên một số linh hồn chưa đủ cứng cáp đã biến dạng.
Một ngày nọ, một trong những người đã lãnh nhận được linh hồn méo mó, đã buộc miệng nói ra một lời dối trá. Tuy chỉ là một lời dối trá không đáng kể, nhưng đó là một lời dối trá đầu tiên xuất hiện trong lịch sử loài người.
Thiên Chúa vô cùng hối hận vì đã không ngăn ngừa được sự dối trá ấy. ngài bèn tập trung loài người lại và tuyên bố: “Từ nay, đừng có một người nào phạm thêm một điều dối trá nữa. Nếu không, cứ mỗi lần có một lời dối trá. Ta sẽ cho rơi xuống mặt đất một hạt cát”.
Nhiều người nghe lời đe doạ của Thiên Chúa, cười thầm trong lòng. Một hạt cát có đáng kể là bao sánh với màu xanh trùng trùng điệp điệp của cây cỏ. Thành ra, loài người đã không đếm xỉa gì đến lời cảnh cáo của Thiên Chúa. Người thứ hai thêm một lời nó láo mà vẫn đinh ninh đó chỉ là điều không đáng kể, cũng như thêm một hạt cát trên trái đất cũng không thay đổi được bộ mặt của nó. Cứ thế, người thứ ba, rồi người thứ tư… Người ta nói dối đến độ Thiên Chúa không còn đủ sức để cho cát rơi xuống trên mặt đất nữa… Ngài đành phải dùng đến bàn tay của các thiên thần để cho mưa cát xuống.. Không mấy chốc, những đồng cỏ xanh tươi, những vườn cây um tùm biến thành sa mạc khô cằn. Thỉnh thoảng một vài ốc đảo xanh tươi mọc lên, đó là dấu hiệu sự hiện diện của một vài người còn biết tôn trọng sự thật. Nhưng dần dà, ôn dịch dối trá lan tràn khắp nơi, trái đất chỉ còn là một bãi sa mạc.
Tất cả những ai sống trong một xã hội xây dững trên dối trá, lừa đảo, đố kỵ lẫn nhau đều hiểu được thế nào là sa mạc của tình người. Sa mạc nào cũng là biểu hiệu của sự chết: chết của tình người, chết của lòng tin tưởng lẫn nhau, chết của hy sinh phục vụ, chết của lòng quảng đại. Tựu trung, dối trá cũng là tên gọi của ích kỷ. Người dối trá là người chỉ biết sống cho mình. Nếu ơn gọi của con người, nếu sự thật của con người là sống yêu thương, sống cho người, thì kẻ dối trá là người chối bỏ chính mình.
Chúa Giêsu đã lên án gắt gao thái độ dối trá. Ngài nói: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”. Kẻ dối trá, do đó, tự đặt mình dưới quyền thống trị và điều khiển của ma quỷ.
Mỗi một thái độ dối trá là một hạt cát rơi xuống trên sa mạc của tình người. Nhưng mỗi một hành động của quảng đại, của yêu thương, của phục vụ là một ốc đảo xanh tươi của chân lý, đó là chân lý của tình yêu.
3. CHÚA LÀ NƠI CON NƯƠNG TỰA
Dạo tháng 6/1985, những người theo dõi truyền hình bên Tây phương vẫn còn nhớ mãi hình ảnh chiếc máy bay đang đậu ở phi trường, với viên phi công trong buồng lại ngó ra ngoài nói chuyện với một số phóng viên, trong khi có một người đứng bên cạnh, cầm súng dí sát vào đầu viên phi công. Đó là hình ảnh của viên phi công John Testrake trên chiếc máy bay của hãng TWA, bị không tặc uy hiếp trên đường bay từ thủ đô Athenes của Hy Lạp về Lamã. Trong suốt 17 ngày, không tặc đã dùng lựu đạn và súng uy hiếp phi công,buộc ông phải bay từ Beirut qua Alger rồi bay về Beirut cả thảy 4 lần. Họ cũng đã bắn chết một hành khách, đánh đập một số hành khách khác. Cuối cùng họ đã để cho tất cả 39 con tin trên máy bay được đem đến một căn nhà ở Beirut rồi được chở về Đamascus trước khi được trả tự do. Mặc dù không phải là con tin trên chiếc máy bay đó, nhiều người cũng đã cảm thấy căng thẳng hồi hộp chỉ vì theo dõi tin tức trên truyền hình hay truyền thanh…
Mới đây, viên phi công John Testrake có thuật lại kinh nghiệm hi hữu của mình. Anh nói như sau: “Lúc đó, tôi biết chắn chắn là có Chúa ở với tôi, nên tôi không những không sợ hãi mà còn tràn ngập bình an tin tưởng là khác”. Anh cũng nói thêm rằng anh đã theo đạo năm lên 25 tuổi, nhưng lúc bấy giờ anh chưa thực sự xác tín ở sự hiện hữu của Chúa. Mãi đến năm 1983, anh mới thực sự thức tỉnh, bắt đầu đọc Kinh Thánh và cầu nguyện một cách đều đặn. Nhờ có Kinh Thánh mang trong mình, cho nên trong suốt 17 ngày bị uy hiếp,anh vẫn không tỏ ra nao núng vì tin chắc cho Chúa đang phù trợ anh…
Cách đây hai năm, John Testrake đã xin thôi không làm việc cho hãng TWA để tập trung vào các công cuộc từ thiện và để lái máy bay đưa các nhà truyền giáo đến các vùng xa xôi hẻo lánh. Đi đến đâu, anh cũng thuật lại việc Chúa đã giải cứu anh, nhất là việc Ngài đã ban cho anh bình an tin tưởng khi phải chạm trán ưới tử thần.
Ai trong chúng ta có lẽ cũng đã hơn một lần chạm trán với tử thần hay kinh qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống… Những người không có niềm tin thường sợ hãi bối rối vì không biết những gì đang chờ đợi mình bên kia cuộc sống. Những người có niềm tin hẳn không là những con người không biết sợ hãi, nhưng họ tin rằng bên cạnh họ luôn có Đấng che chở phù trợ họ.
Chúng ta có thái độ nào khi đứng trước những giờ phút nguy ngập, những thử thách trong cuộc sống? Chúng ta có tin tưởng rằng có Đấng luôn ở bên cạnh chúng ta, để gìn giữ, phù hộ chúng ta không? Với niềm tin vững vào tình yêu của Đấng luôn có mặt bên cạnh chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống, chúng ta sẽ đối đầu với những khó khăn và thử thách với bình thản và vui tươi.
4. BÓNG TỐI
Raoul Follereau đã thuật lại câu chuyện về một người phong cùi như sau: Từ nhiều năm qua, ông ta sống chiu rúc trong căn lều tối tăm của ông. Xá tránh ánh sáng, đôi mắt ông đã trở thành mù loà. Bóng tối trên đôi mắt đã đành, ông còn tự giam hãm ngay cả trong bóng tối của tâm hồn. Người đàn ông như đang tự chôn vùi mình trong chính đáy mồ của ông… Mỗi ngày, có một nữ tu đến để tẩy rửa và băng bó các vết thương cho ông. Ông chấp nhận cho người nữ tu săn sóc, vì nghĩ rằng ít nhất người nữ tu cũng nở được nụ cười mãn nguyện.
Ngày tôi đến thăm, người nữ tu cho tôi biết rằng người đàn ông đã không bao giờ muốn ra khỏi căn lều tăm tối của mình… Tôi tiến lại gần con người khốn khổ ấy và đưa cánh tay ra mời mọc. Tôi nắm lấy cánh tay của ông và dìu ông đứng dậy. Chúng tôi ra khỏi căn lều tăm tối. Vừa đến bên cánh cửa nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông đã dó một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được. Ra khỏi căn lều,đứng giữa ánh sáng, ông hô lên một tiếng kêu lớn: “Tôi thấy!”.
Kễ từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ụp phủ xuống trên cuộc đời, thì đây là lần đầu tiên, người bệnh mới cảm nhận thực sự ánh sáng xung quanh mình. Lấy tất cả sức lực còn lại, người đàn ông thét lên với cây cỏ, với núi non, với trời cao, với tất cả mọi người: Tôi thấy! Tôi thấy!.
Có những người tự giam mình trong bóng tối. Có những người bị người khác đày ải vào bóng tối…
Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào bóng tối. Một cuộc sống thiếu chứng ta, một khước từ giúp đỡ, đó có thể là những hành động xô đẩy người khác rơi vào bóng tối, chúng ta cũng tự giam mình vào bóng tối hay giảm bớt cường độ ánh sáng trong chúng ta…
“Các con là ánh sáng thế gian”. Lời của Chúa Giêsu nói lên bản chất của người Kitô. Người Kitô chỉ là Kitô khi họ là ánh sáng thế gian… Ánh sáng không thể sáng soi nữa, ánh sáng ấy sẽ trở thành tăm tối.
Hãy chiếu ánh sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một bàn tay đưa ra để dìu dắt, để đồng hành: đó là bao nhiêu việc làm của ánh sáng mà bao nhiêu người đang chờ đợi nơi chúng ta. Và chúng ta cũng tin rằng, một ánh lửa càng được chia sẻ, thì càng sáng lên…
5. HÃY CHO MỘT NỤ CƯỜI
Một bệnh nhân nọ được đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh nhân khác.
Không chịu đừng nổi trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách. Anh trình như sau: “Tại sao ông lại đưa tôi và nơi đây? Tất cả các bệnh nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu như tôi”.
Vị phụ trách mỉm cười đáp: “Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều đã khám phá ra một bí quyết, một bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không tin”.
Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu. Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên… Ngài giải thích như sau: “Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông.Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối”.
Cái chết của Đức Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Đó là tình yêu được dâng hiến cho tất cả mọi người. Đó là hy sinh của một người cho tất cả mọi người. Đó là lý tưởng của một người sống và chết cho mọi người.
Nhìn ngắm Đức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người chỉ thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống cho tha nhân,con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú…
Có của cải,có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của mình.
Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phản nàn, nhưng luôn để lộ trên gương mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Vác lấy khổ đau để không trở thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ quí hoá nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy.
6. TUẦN HÀNH CHỐNG LẠI SỢ HÃI
Buổi sáng ngày 6/6/1966. Trương cao biểu ngữ với tựa đề: tuần hành chống lại sợ hãi, một người da đen 32 tuổi đã bước xuống quốc lộ thứ 51 của thành phố Memphis thuộc tiểu bang Mississipi bên Hoa Kỳ. tiểu bang Mississipi có tất cả một triệu người da đen. Mặc dù luật pháp Hoa Kỳ bảo đảm cho mọi người công dân, không phân biệt chủng tộc và địa vị xã hội, quyền được bỏ phiếu, trong thực tế chỉ có 100 ngàn người da đen đủ can đàm thi hành quyền này. Con số còn lại, vì sợ hãi bởi nhiều sức ép khác nhau đã không dám đi bỏ phiếu.
James Meredith, người thanh hiên da đen nói trên, đã tuyên bố: “Chúng ta cần phải giải thoát khoải những sợ hãi do người da trắng tạo ra. Tôi sẽ tuân hành từ Memphis đến thủ phủ của tiểu bang để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng một người da đen có quyền sống và đi lại, tôi muốn thắng vượt nỗi sợ hãi và những đe doạ do những người phân biệt chủng tộc tạo nên”.
Trong phút chốc, nhiều người, kể cả những người da trắng, đã ra khỏi nhà và tuần hành bên cạnh Meredith. Meredith tâm sự với một vị mục sư đi bên cạnh như sau: “Thoạt tiên, tôi định mang theo một khẩu súng. Nhưng cuối cùng, tôi đã quyết định mang theo một khí giới duy nhất: đó là quyển Kinh Thánh”.
Meredith dự định băng qua 350 cây số để đến thủ phủ của tiểu bang, nhưng chưa đầy một ngày đường, anh đã bị một người da trắng quá khích bắn ngã gục. Phát súng định mệnh đó làm rung động toàn thể nước Mỹ.
Giữa lúc Meredith đang nằm điều trị tại một nhà thương, từng đoàn người đến thăm và ủng hộ sáng kiến của anh. Sự sợ hãi giờ đây đã nhường chổ cho một phong trào đang vươn lên với đầy khí thế…
Mục sư Martin Luther King, giải thưởng Nobel về hoà bình và là thủ lãnh của phong trào tranh đấu bất bạo động của người da đen tại Hoa Kỳ, đã ngỏ lời với từng trăm ngàn người đang đứng trước cửa bệnh viện Memphis như sau: “Cuộc tuần hành chống lại sợ hãi sẽ không bao giờ chấm dứt. Chúng ta sẽ xuống đường lại ngay từ nơi Meredith đã bị bắn gục. Con đường từ Memphis đến Jackson chỉ dài độ 350 cây số. Nhưng xiềng xích của sợ hãi và đe doạ mà chúng ta muốn bẻ gãy lại còn dài gấp bội”.
Những người da đen bên Hoa Kỳ đã phải trải qua những năm tháng dài dưới sự đe doạ và sợ hãi. Sợ hãi là tâm trạng thường tình của những ai đang sống trong đe doạ, bất an.
Không biết mình sẽ bị bắt giữ lúc nào, không biết mình sẽ được phóng thích lúc nào, không biết mình có đủ cơm ăn áo mặc cho ngày mai không, không biết tương lai của con em mình sẽ như thế nào, không biết niềm tin của mình rồi ra có còn đứng vững trước những đe doạ không. Từng nỗi hoang mang ấy khiến ai trong chúng ta cũng đã một lần trải qua sợ hãi.
Chúa Giêsu, trong những giây phút nguy ngập nhất đã trấn an các môn đệ của Ngài: “Các con đừng sợ hãi, vì Ta đã thắng thế gian”. Nghĩ đến cuộc khổ nạn đang chờ đợi trước mắt, Chúa Giêsu đã run rẩy sợ hãi đến độ toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng, Ngài đã thắng vượt tất cả bằng khí giới của tình thương. Tình thương là sức mạnh của ngài trong bao thử thách… Meredith đã không mang theo súng đạn để trấn an chính mình, anh chỉ mang theo một quyển Kinh Thánh. Phải, bởi vì Kinh Thánh là biểu hiệu của tình thương.
7. BẰNG LÒNG VỚI CUỘC SỐNG
Sau một thời gian cần cù làm ăn và chắt chiu, một người đàn ông nọ đã trở thành người giàu có nhất trong ngôi làng nhỏ bé của mình.
Từ lúc mua được một con lừa, anh ta mới có ý nghĩ làm một chuyến đi xa cho biết đó biết đây. Anh đến một ngôi lành khác lớn hơn ngôi làng của anh. Một ngôi nhà thật đẹp và sang trọng đập vào đôi mắt của anh. Sau khi dò hỏi,anh biết được đó là ngôi nhà của ngời giàu có nhất trong làng.
Anh bèn trở về ngôi làng nhỏ bé của mình và quyết chí làm ăn, dành dụm để may ra có thể xây được một ngôi nhà đẹp hơn ngôi nhà mà anh vừa trông thấy ở ngôi làng bên cạnh. Không mấy chốc, tiền bạc dư giả, không những anh đã xây được một ngôi nhà sang trọng đẹp đẽ hơn mà còn mua được cả đàn ngữa và xe nữa.
Lần này, anh vượt qua các ngôi làng nhỏ để đến một đô thị lớn. Tại đây, đâu đâu anh cũng thấy những ngôi nhà đẹp và ngôi nhà nào cũng đẹp hơn ngôi nhà của anh. Anh nghĩ bụng: cho dẫu có lao nhọc cả quảng đời còn lại, anh cũng không tài nào có thể xây được một ngôi nhà đẹp như thế.
Anh bèn tiu nghỉu đánh xe quay lại ngôi làng cũ của mình. Nhưng rủi thay, xe gặp tai nạn, anh đàn phải bỏ chiếc xe để leo lên lưng ngựa cố gắng chạy về ngôi làng cũ của mình. Nhưng dọc đàng, vì mệt mỏi và đói lã, ngữa cũng lăn ra chết. Người đàn ông chỉ còn biết lủi thủi đi bộ về nhà.
Đêm đến, giữa sa mạc, anh nhìn thấy một ánh lửa bập bùng từ xa. Anh nấn ná tìm đến và khám phá ra túp lều của một vị ẩn sĩ. Vào trong túp lều, người đàn ông mới nhận ra rằng có lẽ trong đời anh, chưa bao giờ anh thấy có cảnh nghèo nàn cùng cực hơn.
anh ái ngại nhìn nhà tu hành rồi thắc mắc: “Thưa ông, làm sao ông có thể sống được trong cảnh cùng cực như thế này?”.
Nhà ẩn sĩ mỉm cười đáp: “Tôi bằng lòng với cuộc sống… Thế còn ông, xem chừng như ông không được thoả mãn về cuộc sống của ông cho lắm”. Người đàn ông ngạc nhiên hỏi: “Sao ông biết tôi không được thoả mãn?”. Nhà ẩn sĩ nhìn thẳng vào đôi mắt của người đối diện rồi thong thả nói: “tôi nhìn thấy điều đó trong đôi mắt của ông. Đôi mắt của ông cứ chạy theo giàu sang, nhưng sự giàu sang không bao giờ đến với ông… Ông hãy nhìn cảnh hoàng hôn. Ông có thấy những tia sáng yếu ớt đang chiếu rọi trên cánh đồng không? Chúng tưởng mình đang soi sáng cả vũ trụ. Nhưng không mấy chốc, các ngôi sao mọc lên, và những tia sáng hoàng hôn biến mất. Những ánh sao tưởng chúng đang soi sáng cả bầu trời, nhưng khi mặt trăng vừa ló dạng, thì những ánh sao ấy cũng bắt đầu tắt ngụm. Vầng trăng sáng kia tưởng mình soi sáng cả trái đất, nhưng không mấy chốc, mặt trời lại mọc lên và mọi thứ ánh sáng của đêm đen đều biến mất. Nếu những thứ ánh sáng trên đây biết suy nghĩ về những điều ấy, thì có lẽ chúng sẽ tìm lại được nụ cười đã đánh mất”.
Nghe câu chuyện ví von của nhà hiền triết, người đàn ông mở miệng mỉm cười, nhưng nỗi buồn vẫn còn thoáng trên gương mặt ông.
Vị ẩn sĩ tiếp tục câu chuyện: “Ông có biết rằng sánh với tôi, ông là vua không?”. Người đàn ông tự nhiên so sánh căn nhà của mình với túp lều của vị ẩn sĩ. Nhưng đó không phải là điều mà vị ẩn sĩ muốn nói đến… Ông cầm chiếc đèn đưa lên cao và mời người đàn ông đến gần bên mình.
Dưới ánh đèn, người đàn ông mới nhận ra rằng vị ẩn sĩ là người không còn ngay cả đôi chân để có thể di chuyển một cách bình thường.
Giữa cuộc hành trình đầy cam go. Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Chúa Giêsu muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, cũng như chính nổi hoang mang lo sợ của các môn đệ khi Ngài loan báo cái chết… Xin cho ánh sáng phục sinh của Chúa chiếu rọi vào cuộc sống đầy âm u, tăm tối của chúng ta. Xin cho chúng ta biết đón nhận từng đớn đau, thử thách trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan, vì tin rằng bên kia tăm tối là ánh sáng phục sinh đang chờ đón chúng ta.
8. MẸ CHÚNG TA
Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính toà Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử toạ như sau: “Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Đức Mẹ là ai?”.
Thánh nhân phải lặp lại câu hỏi đó đến 3 lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: “Tha cha, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa”. Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: “Đúng thế, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói như thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria”. Liền sau đó, cử toạ bắt đầu kể ra rất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa thiên đàng, Mẹ là Đấng an ủi kẻ có tội, Mẹ là Đấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Đấng cứu chữa kẻ bệnh tật vv…
Su khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Đức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nói tiếp: “Đức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn biết thêm về Đức Maria..”
Chờ mãi không thấy có thêm câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: “tôi xin được nói với anh chị em Đức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Đó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn mẹ chúng ta. Cũng thế trên thiên đàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria..”
Chính lúc Đức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ.
Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Đức Maria đã sinh hạ chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự độc ác tột cùng mà người Do Thái và Lamã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người chà đạp người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng chiến đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp của Đức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung: đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt lấy từng nỗi đớn đau, ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
9. MUÔN VÀN PHÉP LẠ
Một vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị tiền bối.
Ông quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi, bình thường như mọi người.
Nhưng đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của ông. Biết ông đang toán tính bỏ cuộc để trở lại đô thị, Thiên Chúa bèn sai một thiên thần đến với ông. Vị sứ thần đã nói với ông như sau: “Nươi đang toan tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ diệu hơn chính cuộc sống của ngươi không? Ai đã ban cho người sức mạnh để có thể cầm cự trong nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua? Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi đã dùng trong thời gian qua mà không hề gây nguy hại cho ngươi? Ngươi hãy ở lại đây và xin Chúa ban cho người thêm lòng khiêm nhượng…”.
Được lời của vị sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống tu trì của ông với niềm tin vững rằng mỗi một phút giây qua đi trong cuộc sống là một phép lạ mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông.
“Đây là lúc thuận tiên, đây là ngày cứu độ”. Giáo Hội mượn lời Kinh Thánh này để mời gọi chúng ta sống một cách sung mãn giây phút hiện tại. Mỗi một giây phút hiện tại là một hồng ân cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục biến mỗi phút giây của cuộc sống chúng ta thành một phép lạ.
Không là phép lạ sao khi tim của chúng ta vẫn tiếp tục đập, mũi chúng ta vẫn tiếp tục hít thở! Còn gì kỳ diệu bằng chính sự sống mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục trao ban cho chúng ta. Còn gì kỳ diệu bằng niềm tin Ngài đã trao ban cho chúng ta. Còn gì kỳ diệu bằng niềm tin ngài đã trao ban để chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành này.
Chúng ta vẫn thường nói: ngạc nhiên là khởi đầu của khám phá! Nếu tất cả những khám phá của khoa học đều bắt nguồn từ những câu hỏi mà con người tự đặt ra khi nhìn ngắm vũ trụ, thì sự ngây ngất trước những kỳ công của sáng tạo, trước cuộc sống, trước tình người cũng phải là động lực giúp người tín hữu Kitô chúng ta thấy được, cảm mến được sự hiện diện và tác động kỳ diệu của Thiên Chúa.
Cái nhìn ấy sẽ giúp chúng ta thấy được giá trị của những công việc âm thầm từng ngày của chúng ta. Cái nhìn ấy sẽ mang lại cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục phấn đấu khi phải đương đầu với bệnh tật, với thử thách, với mất mát trong cuộc sống. Một Thiên Chúa luôn làm những kỳ diệu cũng chính là Đấng đang có mạt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta để đem lại cho chúng ta những điều thiện hảo đôi khi vượt quá khỏi cái nhìn nông cạn, sự thẩm định giới hạn của chúng ta.
10. HÃY LÀM CHỦ CHÍNH MÌNH
Một tác giả nọ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: Một nhà trí thức, một thương gia và một quan đầu tỉnh bị quân cướp tấn công nhân một cuộc hành trình giữa sa mạc. Sau khi đã đánh đập, bọn cướp bỏ 3 người dở sống dở chết bên lề đường. Tuy nhiên, 3 người cũng cố gắng lê bước để tìm đến túp luều của một vị ẩn sĩ. Sau khi đã băng bó các vết thương cho ba người, vị ẩn sĩ mới nói với họ: “Túp lều của tôi quá nhỏ. Mùa đông lại sắp đến. Xin mỗi vị cố gắng làm riêng cho mình một căn lều để trú ẩn”.
Nghe thế cả 3 người bộ hành đều chống chế, vì họ chỉ muốn tiếp tục cuộc hành trình mà thôi. Vị ẩn sĩ mới cho họ biết rằng tuyết đã bắt đầu rơi và không còn một lối thoát nào có thể giúp họ ra khỏi vùng sa mạc.
Nhưng làm thế nào để tự mình có thể dựng cho mình túp lều? Nhà trí thức thì than phiền rằng mình không có sách vở trong tay. Thương gia thì quả quyết rằng cả đời mình chỉ biết đếm tiền và giao dịch. Còn viên đầu tỉnh thì cho rằng ông không thể làm việc gì mà không có thuộc hạ.
Nhưng nước đến trôn rồi thì cũng đành phải nhảy. Không còn lý do gì để khước từ, cả ba người đành phải bắt tay vào việc dựng riêng cho mình căn lều. Khi họ vừa hoàn thành túp lều thì mùa đông cũng vừa đến. Trong suốt mùa đông dài, họ không còn biết làm gì hơn là ngôi bên bếp lửa để ôn lại chuyện quá khứ… Vị ẩn sĩ thỉnh thoảng cũng xen vào câu chuyện để góp ý và an ủi ba người bất hạnh.
Đông tàn, xuân đến. Ba người bộ hành muốn lên đường trở về nhà tức khắc. Nhưng lòng tốt và tình bạn của nhà ẩn sĩ không nỡ để họ ra đi. Thành ra, họ đành ở nạn lại một thời gian để giúp ông cày xới và gieo trồng cũng như chăm sóc gia súc. Và rồi, khi ánh nắng xuân chiếu toả giữa sa mạc, họ cũng ở lại thêm một thời gian để ngắm cảnh thiên nhiên…
Một ngày nọ, vị ẩn sĩ mới thắc mắc như sau: “tôi không còn nghe các ông nói đến sách vở, công việc làm ăn và những người thuộc hạ nữa. Có chuyện già xảy ra cho các ông không?”. Cả 3 người đều giữ thinh lặng. Vị ẩn sĩ mới nói tiếp:“tôi xin phép được trả lời cho các ông nhé. Trước kia, các ông có một ông chủ, ông chủ của các ông có tên là sách vở, là tiền bạc, là các thuộc hạ. Giờ đây, các ông cũng giống như chó lạc mất chủ, các ông cảm thấy tự do. Nhưng tôi nghĩ rằng tốt hơn là các ông nên trở về với sách vở, với tiền bạc, với các thuộc hạ của các ông. Trở về nhưng không với tư cách là nô lệ nữa. Các ông hãy là chủ chính mình. Và nếu các ông muốn có một người chủ luôn để cho các ông tự do hoàn toàn, xin hãy nhớ đến tôi và chủ của tôi”.
Lục soát cho kỹ trong lương tâm, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ.
Có ông chủ mang tên là một ý thức hệ kiên cố đang trói buộc đôi cánh tư tưởng của chúng ta. Chúng ta bị giam hãm trong vòng nô lệ đến độ không dám đưa chân bước ra khỏi vòng tròn mà ý thức hệ đó đã vẽ sẵn.
Có ông chủ mang tên là những định kiến đối với cuộc đời, đối với xã hội, đối với con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ. Cái mũ của nghi kỵ, của chối bỏ, mà chúng ta luôn chụp xuống trên người khác có lẽ cũng là hàng rào kẽm gai mà chúng ta khoanh tròn xung quanh chúng ta để mãi mãi chỉ mang lấy một cái nhìn hẹp hòi, ích kỷ.
Có ông chủ là những thói quen xấu mà chúng ta tích luỹ như một pháo đài kiên cố để không muốn rời một bước.
Có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng kỳ thực lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý và tự do đích thực.
Mỗi người chúng ta cần phải rời bỏ những ông chủ quen thuộc để đi vào trong túp lều nhỏ bé, nhưng do chính chúng ta cố gắng tự tạo ra. Nơi sa mạc của cõi lòng, chúng ta sẽ gặp gỡ được chính Chúa là ông chủ đích thực của chúng ta. Có trút bỏ mọi ràng buộc trong cuộc sống, chúng ta mới cảm thấy được Ngài chiếm ngự và lúc đó chúng ta mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực mà Chúa Giêsu đã hứa: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
11. KẺ THÁO ĐINH
Một trong những chi tiết trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục gợi hứng cho các hoạ sĩ, đó là việc hạ xác Ngài xuống khỏi thập giá. Tin Mừng theo thánh Gioan ghi lại việc ông Nicôđêmô và một người môn đệ kín đáo khác của Chúa Giêsu tên là Arimahtia đã đến xin phép Philatô được tháo gỡ xác Ngài xuống khỏi thập giá. Trong hầu hết các bức tranh mô tả biến cố này, người ta đều thấy hình ảnh tiều tuỵ, không còn hình tượng của Chúa Giêsu mà hai người môn đệ dỡ xuống khỏi thập giá. Một người tháo đinh ra khỏi tay Ngài, còn một người thì tháo đinh ra khỏi chân Ngài.
Một hoạ sĩ nọ, thay vì vẽ lại chân dung của hai người môn đệ của Chúa Giêsu đã chọn những khuôn mặt của thời đại ông. Và người tháo đinh ra khỏi bàn chân của Chúa Giêsu không ai khác hơn là chính ông. Khi được hỏi lý do tại sao ông tự đồng hoá mình với một trong hai người môn đệ, nhà hoạ sĩ đã giải thích như sau: “Những người như tôi rất thường đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Và những đinh sắt tôi dùng để đóng đinh Chúa chính là tội lỗi của tôi. Đã đến lúc, tôi cảm thấy cần phải tháo gỡ chiếc đinh của tội lỗi ra khỏi thân xác của Ngài”.
Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi”. Điều đó có nghĩa là do tội lỗi của chúng ta, chúng ta góp phần vào việc đóng đinh Ngài vào thập giá.
Thập giá vẫn luôn mãi là một lời tố cáo, một bản án cho tội lỗi. Nhưng đó không chỉ là một biểu tượng, mà là một hiện thực. Nếu Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, nếu Đức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người và nếu tội lỗi là một chối bỏ, thì mỗi lần chúng ta phạm tội, chúng ta cũng chối bỏ chính ngài, chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá một lần nữa. Nếu Đức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người, nếu Ngài tự đồng hoá với con người, nhất là những kẻ khốn cùng, những kẻ thấp hèn nhất trong xã hội, thì mỗi một lần chúng ta khước từ hay xúc phạm đến người anh em, là mỗi lần chúng ta chối bỏ Ngài và đóng đinh Ngài vào thập giá. Qua mỗi người anh em của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục bị chối bỏ và chịu đóng đinh.
12. NGỌN LỬA KHÔNG HỀ TẮT
Trong tác phẩm Đại Học Máu, văn sĩ Hà Thúc sinh cũng giống như văn hào nga Solzenitzyn ghi lại thân phận tù đày của các tù nhân Việt Nam trong các trại học tập. Nhưng giữa những đoạ đày cùng cực của kiếp người, Hà Thúc Sinh vẫn có cái nhìn lạc quan về thân phận con người. Con người bị bạo hành ở những mức độ vô nhân nhất mà vẫn khôi hài, cười đùa, giỡn cợt được.
Trong tác phẩm đầu tay của ông có tựa đề “Hai chị em”, Hà Thúc Sinh đã nêu bật hình ảnh của con người tranh đấu lạc quan, chẳng còn biết gì để sợ, sẵn sàng kịch liệt chóng lại định mệnh để tự thắng và tự cứu mình… Hai chị em Lan và Trực bị đám tàu trong một cuộc vượt biên đầy nguy hiểm. Là hai người duy nhất còn sống sót, họ trôi dạt và tấp vào một hoang đảo giữa Thái Bình Dương. Trong nguyên một tuần lễ, tác giả đề cao sức chịu đựng, tinh thần tháo vát của hai chị em. Sau một tuần lễ chịu đựng người chị ngã bệnh, Trực bèn kết bè để ra khơi mong tìm lại được chiếc ghe đắm trên đó còn chút ít lương thực, thuốc men và quần áo. Khi ra đi, anh đã nhóm được một ngọn lửa trên núi cao vừa làm dấu hiệu để kêu gọi sự chú ý của thuyền bè qua lại trong vùng, vừa lấy đó như ngọn hải đăng để còn có thể quay lại đảo… Nhưng anh đã ra đi và không bao giờ trở lại hoang đảo… Song ta gió lớn có lẽ đã chôn vùi anh giữa lòng đại dương. Người chị tất tả chạy ra bãi cát giữa cơn giông bão để réo gọi tên em.
Tác giả đã kết thúc câu chuyện như sau: “Nếu có thuyền bè chạy qua eo biển, một vùng hoang đảo trên Thái Bình Dương những ngày biển lặng sau đó, chú mục, người ta có thể thấy một ngọn lửa. Ngọn lửa ấy đốt bập bùng trên một triền núi, khi lớn khi nhỏi, khi tỏ, khi mờ. Nhưng có điều chắc chắn là nó chưa hề tắt”.
Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu chống lại với những khắc nghiệt của thiên nhiên. Chống lại không biết bao nhiêu kẻ thù, chống lại với chính bản thân đầy ương hèn,xấu xa.
Nhưng người Kitô hữu không phải là một thứ anh hùng khắc kỷ, tự chiến đấu một mình và tin ở sức mạnh vô song cú ý chí. Chúa Giêsu đã chiến đấu, nhưng Ngài không là một anh hùng của một ý chí sắt đá. Sức mạnh duy nhất của ngài chính là Thiên Chúa. Lương thực của Ngài là thánh ý Chúa Cha. qua ba cơn cám dỗ, Chúa Giêsu đã luôn luôn qui chiếu vào Lời Chúa. Lời của Chúa là khí giới, là thuẫn đỡ của Ngài.
Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính là Đức Kitô sống trong tôi. Đó phải là ý lực sống của chúng ta. Chúng ta cũng hãy nói: tôi chiến đấu, nhưng không phải là tôi chiến đấu, mà chính Đức Kitô chiến đấu trong tôi. Sức mạnh của Kitô giáo, bản chất của Kitô giáo không phải là tổng số của các tín hữu, mà chính là sự sống của Đức Kitô đang châu lưu trong từng người tín hữu.
13. HÃY MAI TÁNG CHÍNH MÌNH
Một vị linh mục nọ đã có một sáng kiến rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ. Một buổi sáng Chúa nhật nọ, dân chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau: “Một nhân vật tên tuổi trong giáo xứ vừa qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào 9 giờ sáng thứ Tư tới”. Nghe lời loan báo ấy, cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan trọng ấy là ai.
Đúng ngày tang lễ, mọi người trong giáo xứ nườn nượp kéo đến nhà thờ. Từ cung thánh cho đến cuối nhà thờ, không còn một chỗ trống. Người ta đến không phải để cầu nguyện cho người quá cố cho bằng để nhìn moặt lần cuối cùng con người mà ai cũng muốn biết.
Sau thánh lễ, vị linh mục đến mở nắp quan tài để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối cùng người quá cố. Ai ai cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai cũng đều ngạc nhiên, bởi vì thay cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn thấy trong quan tài một tấm gương và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi người chỉ thấy dung nhan của mình mà thôi.
Chờ cho mọi người làm xong nghi thức từ biệt ấy, vị linh mục mới giải thích: “Như anh chị em để có thể nhận thấy,k tôi đã cho đặt vào quan tài một tấm kính. Con người mà anh chị em nhìn thấy trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi người trong chúng ta. Vâng, đúng thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần phải mai táng chính mình… Thánh lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng ta”.
Bắt đầu sứ mệnh công khai của Ngài bằng cử chỉ dìm mình xuống dòng nước sông giodan, Chúa Giêsu muốn oan báo cho mọi người thấy rằng Ngài đã vâng phục ý Chúa Cha để đi vào cái chết và nhờ đó cứu rỗi nhân loại. Một cách nào đó, mầu nhiệm của sự chết và sống lại đã được diễn tả qua việc Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước.
Thiết lập phép Rửa như cửa ngõ để đưa chúng ta vào cuộc sốn trường sinh Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài. Dìm mình trong nước của phép Rửa, chúng ta khởi đầu cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết. Sống đối với chúng ta có nghĩa là chết: chết cho những khuynh hướng xấu, chết cho những đam mê xấu, chết cho tội lỗi, chết cho ích kỷ, chết cho hận thù. Cuộc sống do đó đối với chúng ta cũng là một cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất phải thối đi,cũng thế chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta.
14. TÔI BIẾT CHẠY ĐẾN VỚI AI?
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng mình có thể được tha thứ nữa. Ông cầm 30 đồng bạc là giá của sự phản bội và đi vào đền thờ để trả lại cho các thượng tế và kỳ lão. Sau đó, ông ra ngoài lấy dây thắt cổ tự vận.
Câu chuyện ấy đã được xen vào vở tuồng thương khó nổi tiếng của dân làng Oberammergau bên Đức. Cứ 10 năm một lần, theo một lời thề hứa mà cha ông đã để lại từ mấy trămnam qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vở kịch thu hút khán giả từ khắp nơi trên thế giới.
Người ta kể lại rằng lần kia, một em bé gái 7 tuổi ngồi cạnh mẹ để xem vở tuồng. Người đóng vai Giuđa, trong cơn thất vọng não nề đã thốt lên: “tôi biết đi đến với ai bây giờ? tôi đã phản bội Thầy tôi. Thế là hết! Tôi không biết phải chạy đến với ai nữa”.
Em bé ngồi bên cạnh mẹ cảm thông cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng. Em muốn tìn cách đẻ cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em bèn quay sang mẹ và nói lớn đến độ tất cả mọi khán thính giả có mặt trong hội trường đều nghe được: “Má ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.
Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, những lần mếu máo khi lạc mất mẹ, hay những lần vòi vĩnh mẹ… hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm của bản thân ấy đã trở thành bải học về hồn nhiên trong trắng, tin tưởng, phó thác của tuổi thơ mà Chúa Giêsu luôn đề ra cho chúng ta khi Ngài nói: “Nếu các ngươi không nên giống như trẻ nhỏ, các ngươi không được vào Nước Trời”.
Tuổi thơ thường gắn liền với mẹ. Còn âm thanh nào bộc phát, tự nhiên, quen thuộc và êm dịu trên môi của trẻ thơ cho bằng tiếng “Mẹ”. Khi vui,trẻ thơ kêu mẹ, lúc đói, trẻ thơ cũng kêu mẹ. Khi tỉnh thức, trẻ thơ cũng kêu mẹ, lúc ngái ngủ, trẻ thơ cũng kêu mẹ… Mẹ là tất cả của trẻ thơ.
Mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ để được vào Nước Trời, hẳn Chúa Giêsu cũng muốn nhắn gởi chúng ta cho mẹ của Ngài. Trở nên trẻ thơ trong Nước Trời cũng có nghĩa là biết chạy đến với Mẹ Ngài. Trở nên trẻ thơ trong Nước Trời cũng có nghĩa là mặc lấy tâm tình của chính Mẹ Ngài, bởi vì còn ai trong trắng, tin tưởng, phó thác cho bằng Mẹ.
15. THIÊN CHÚA KHÔNG THẤT VỌNG VỀ CON NGƯỜI
Văn hào Nga Dostoievski, với những tác phầm nồi tiếng như “Tội ác và hình phạt”, “Anh em nhà Karamazov”, là người đã trải qua một cuộc đời đầy sóng gió. Sau một thời gian dài bị giam cầm bì lý do chính trị, ông bị kết án tử hình. Nhưng như một phép lạ, vào giữa lúc sắp sửa bị hành quyết, ông bỗng nhận được lệnh tha. Người viết tiểu sử của ông kể lại như sau:
Thời gian trong tù đã in đậm nét trên quãng đời còn lại của ông. Từ trên chiếc máy chém nhìn xuống đám người đang đứng dưới chân mình, ông chỉ còn thấy họ là những người bị áp bức, những người nô lệ đáng thương. Dù họ có phạm những tội ác tày trời đi nữa, tâm hồn họ vẫn là tâm hồn của những con người vô tội, do đó đáng được sự tha thứ.
Khi bước xuống khỏi máy chém, Dostoievski thấy mọi sự như vô nghĩa. Điều duy nhất còn có ý nghĩa đối với ông chính là tình yêu, và cho dù trong suốt 30 năm sau, cuộc đời của ông có đắm chìm trong bùn nhơ của tội lỗi, của khốn khổ, của ô nhục, ông luôn nhìn mọi sự qua lăng kính của yêu thương. Một lần bị đưa lên máy chém ấy cho ông hiểu rằng con người đau khổ, tất cả mọi người đều đáng cảm thông, thương mến. Đó là sứ điệp mà Dostoievski công bố suốt cuộc đời ông.
Cả cuộc đời của ông là một cố gắng không ngừng để diễn đạt câu nói: “Hỡi người anh em, không gì có thể ngăn cản tôi yêu thương bạn”.
Nếu có những lúc chúng ta cảm thấy thất vọng về con người đốn mạt của chúng ta, nếu có những lúc chúng ta không còn tin tưởng ở tình người nữa, chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu. Chúng ta thấy ngay ánh mắt nhân từ, cảm thông của Ngài.
Khi Giakêu, thủ lãnh dủa phường thu thế, leo lên cây cao để thấy Ngài. Chúa Giêsu đã ôn tồn nói với ông: “Hôm nay, Ta đến thăm nhà ông”. Khi người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình được dẫn ra trước mặt Ngài, Chúa Giêsu nhỏ nhẹ nói với bà: “Chị hãy về đi, tôi không kết án chị”.
Khi Maria Madalêna đến quì dưới chân Ngài, Chúa Giêsu đã không hất hủi cô.
Khi Phêrô phản bội Ngài, Chúa Giêsu nhìn ông với tất cả trìu mến, thông cảm.
Khi tên trộm cùng bị treo trên thập giá hướng về Ngài, Chúa Giêsu đã hứa với anh “Hôm nay, anh sẽ ở cùng Ta trên thiên đàng”.
Ngài đã ngồi đồng bàn với phường thu thuế, bọn đĩ điếm, kẻ tội lỗi. Ngài tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá.
Qua cách cư xử của Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Ngài yêu thương con người, bởi vì Ngài không thể chối bỏ hình ảnh của Ngài nơi con người. Dù sự dữ có đè bẹp, dù tội lỗi có ngập tràn, ánh lửa yêu thương vẫn âm ỉ bùng cháy trong tâm hồn con người. Chính ánh lửa ấy khiến cho Thên Chúa vẫn luôn nhận ra được hình ảnh của mình nơi con người, để không bao giờ thất vọng về con người.
16. HÃY ĐẾN VỚI TA
Tại Roma có một ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, nghĩa là Chúa ở dưới nước… Du khách đến roma thường đến viếng thăm ngôi thánh đường này, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến quì trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả thành tâm đều nhận được sức mạnh và niềm an ủi thâm sâu…
Người ta kể lại rằng tác giả của tượng thánh giá bằng cẩm thạch này đã mất rất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mồi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập phá đi vì ông cho rằng tác phẩn vẫn chưa diễn đạt điều ông mong muốn… Sau nhiều năm bỏ dở, ông lại bắt tay vào công trình một lần thứ ba. Nhưng chính lúc ông miệt mài chú tâm vào công việc thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tỵ nên tìm cách hạ uy tín của ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương. Người nghệ sĩ chỉ còn biết kêu cầu xin Chúa giúp ông chịu đựng được mọi gian lạo thử thách.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào chông trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không là một phiến đá lạnh lùng xa lạ, mà trở thành niềm đâu đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ đã muốn tháp nhập vào đó.
“Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
Lời mời gọi trên đây của Chúa Giêsu hẳn phải đem lại cho chúng ta an ủi đỡ nâng, nhất là trong những lúc chúng ta gặp đau khổ, thử thách. Chúa Giêsu như muốn nói với chúng ta rằng Ngài đang có đó, Ngài có mặt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta, Ngài mang lấy tất cả những sầu đau, buồn tủi của chúng ta. Mãi mãi, Ngài vẫn là Đấng cứu chuộc chúng ta. Mãi mãi, Ngài đến với chúng ta như đã từng đến với những người phung hủi, những kẻ bệnh tật, kẻ tội lỗi, phường thu thuế… Ngài đón nhận tất cả mọi khổ nhọc, khó khăn của chúng ta. Và bởi vì Ngài mang lấy mọi khổ đau của con người, cho nên ngài cũng tự đồng hoá với mọi người, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh. Trên những khuôn mặt gần như không còn hình tượng của con người nữa, chúng ta phải nhận diện được chính Ngài. Ngài đã từng nói với chúng ta: “Ai cho những ké bé mọn nhất, dù chỉ một chén nước lã thôi, họ đã cho chính Ta vậy”.
Trút lên ngài tất cả gánh nặng của khổ đâu, được Ngài nâng đỡ bổ sức, chúng ta cũng hãy mang lại an ủi đỡ nâng cho mọi người xung quanh. Sự đau khổ nào cũng có sức liên kết con người. Kết hiệp với Đức Kitô trên thập giá, chúng ta cũng dễ dàng liên đới, cảm thông với mọi người đang đau khổ…
17. ĐỜI VẪN CÓ Ý NGHĨA
Một tác giả Thuỵ Điển đã tưởng tượng ra một cuộc tranh luận sôi nổi diễn ra giữa các dân cư sinh sống tại một khu rừng nọ. Đề tài của cuộc tranh luận là: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống…?
Kẻ lên tiếng phát biểu ý kiến đầu tiên không ai khác hơn là chú chim hoạ mi suốt ngày chỉ biết ca hát líu lo. Chú khẳng định rằng: “Đời là một cuộc ca hát không ngừng”. Một chú chuột chũi phản pháo tức khắc.
theo chú: “Đời là một cuộc tranh đấu không ngừng để chống lại bóng tối”. Con bướm có đôi cánh sặc sỡ thốt lên: “Đời là vui chơi và hạnh phúc”. Con ong đang miệt mài tìm mật bên mấy cánh hoa không tán thành ý kiến ấy chút nào. Nó bảo rằng: “Đời là một cuộc lao động vất vả”. Con kiến cũng nhất trí với con ông để chỉ thấy rằng đời là lao động. Từ trên cao, một con phượng hoàng cũng góp ý kiến: “Đời là tự do”. Đó là ý kiến của động vật. Các thảo mộc cung không thiếu ý kiến để đóng góp. Cây thông cao sừng sững giữa rừng hoàn toàn tán thành ý kiến của con phượng hoàng: “Đời là tự do”. Một cánh hoa dại giữa rừng thì lại hùa theo con ong và con kiến để khẳng định rằng đời chỉ là lao động vất vả. Cách hoa hồng thì lại đồng quan điểm với con bước để cho rằng đời là hạnh phúc và vui tươi.
thế giới vô tri cũng lên tiếng phát biểu. Một đám mây đen ngao ngán thốt lên: “Đời chỉ là đắng cay và nước mắt”. Một dòng sông liền hoà trôi chảy cũng nhận định: “Đời là một dòng nước chảy không ngừng”.
Lời phát biểu cuối cùng nhưng cũng là ý kiến tổng kết của cuộc tranh luận là tiếng chuông từ một giáo đường bên cạnh khu rừng. Thật thế, tiếng chuông ấy ngân lên những lời như sau: “Tất cả những lời phát biểu của quí vị đều đúng cả. Đời là hoà bình, đời là ca hát đời là vui tươi, đời là tranh đấu, đời là bể khổ, đời là đắng cay, nhưng tất cả đều tươi nở trong lòng người nhờ quyền lực của Chúa Thánh Thần”.
tôi bởi đâu mà đến? Tôi sẽ đi về đâu? Tại sao tôi đau khổ? Đó là những câu hỏi lớn nhất mà một lúc nào đó trong cuộc sống, chúng ta không thể tránh né được.
Cám ơn Chúa vì đã cho chúng ta giải đáp trong chính Chúa Giêsu Kitô. Chính Ngài là ánh sáng chiếu rọi trên bí ẩn của cuộc đời cũng như trên chính mầu nhiệm của con người. Công đồng Vatican II trong Hiến chế “Vui mừng và hy vọng” đã nói với chúng ta rằng huyền nhiệm của con người chỉ có thể được sáng tỏ trong chính mầu nhiệm của Ngôi Hai nhập thể.
Chúng ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi lớn của cuộc sống bằng cách nhìn vào Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Ngài đã sống kiếp con người như mọi người. Nhưng chính khi tiếp nhận mọi mùi vị của cuộc sống, Ngài đã mặc lấy cho cuộc sống một ý nghĩa, một hướng đi.
Cuộc sống có ngọt bùi, đắng cay, chua xót, cuộc sống có lao động, tranh đấu hay thảnh thơi… Tất cả đều mang lấy một ý nghĩa. Trong chúa Giêsu, mất mát trở thành thăng lợi, thua thiệt trở thành cơ may, đau khổ trở thành dịu ngọt, cái chết trở thành khởi đầu của sự sống.
Nếu chúng ta đón nhận cuộc đời này với cái nhìn ấy, thì quả thực không một thử thách, mất mát, khổ đau nào có thể khiến chúng ta thất vọng. Với quyền lực của Thánh Thần mà chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, những bổ khổ, những đắng cay chua xót của cuộc sống đêu có thể nở hoa, những niềm vui nhỏ ấy sẽ mang lấy chiều kích vĩnh hằng, những việc làm vô danh thường ngày sẽ mang lấy giá trị vĩnh cửu.
18. TẠ ƠN CHÚA
Thi sĩ Lamartine của Pháp có kể lại một giai thoại như sau: Một hôm, tình cơ đi qua một khu rừng, ông nghe một âm thanh kỳ lạ. Cứ sau mỗi tiếng búa gõ vào đá lại vang lên một tiếng “cám ơn”. Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhận thấy một người thợ đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ vào phiến đá, ông lại thốt lên “cám ơn”.
thi sĩ Lamartine mới nấn ná đến trò chuyện,người thợ đá giải thích: “tôi cám ơn Chúa”. Ngạc nhiên về lòng tin của một con người mà duộc sống hẳn phải lam lũ lầm than hơn nhiều người, thi sĩ mới nói: “Giả như bác được giàu có, thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng cám ơn. Đằng nay, Thiên Chúa chỉ nghĩ tới bác có một lần duy nhất đó là lúc ngài tạo nên bác. Sau đó, ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không còn ngó ngàng gì đến bác nữa. Thế thì tại sao bác lại mỏi miệng để cám ơn Ngài?”.
Nghe thế, người đập đá mới hỏi vặn lại thi sĩ: “ngài cho rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao”. Thi sĩ Lamarine bèn thách thức: “Dĩ nhiên, Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần mà thôi”.
Người thợ đá nghè, nhưng đầy lòng tin, mới mếu máo thốt lên: “Tôi nghĩ rằng điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ngài nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, dù chỉ một lần thôi. Vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao? Vâng, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa”. Nói xong, ông bỏ mặc cho thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông vừa đục đá vừa tạ ơn Chúa.
Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là bài ca mà chúng ta không chỉ hát lên trong mùa Giáng sinh, mà phải được lặp lại trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Nhưng khi chúng ta nói: Thiên Chúa yêu thương con người,điều đó trước hết phải có nghĩa là Ngài yêu thương tôi. Thiên Chúa không yêu thương con người một cách chung. Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu cá biệt, riêng rẽ. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi người là một chương trình trong trái tim của Thiên Chúa.
Đối với Thiên Chúa, không có đám đông vô danh, cũng không có những con số. Ngài gọi mỗi người bằng tên gọi riêng… Chúng ta không thể đo lường tình yêu của Thiên Chúa bằng thước đo hẹp hòi, thiển cận của chúng ta. Trong tình yêu quan phòng của Ngài, mỗi một con người là một chương trình và mỗi một chương trình đều cao cả. Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta theo một khuôn mẫu, mà theo một chương trình riêng cho mỗi người. Mỗi một biến cố xảy đến đều được Ngài sử dụng để mang lại điều thiện hảo cho chúng ta. Nói như thánh Phaolô, Thiên Chúa quí mọi sự về điều thiện cho những kẻ Ngài yêu thương. Cũng chính vị thánh này nói: “Tất cả mọi sự đều là ân sủng của Chúa”.
19. THẾ Ư?
Hakuin là một thiền sư nổi tiếng tại Nhật Bản, ông sống ẩn dật trên núi. Ngày kia, có một thiếu nữ con nhà gia giáo bỗng thấy mình có thai. Cô nàng tuyên bó với mọi người rằng chính thền sư Hakuin là tác giả của bào thai. Vừa nghe tin này, cả dân làng, do cha mẹ của cô thếu nữ dẫn đầu, đã giận dữ kéo đến chòi của vị thiền sư. Họ la hét, chửi rủa vị thiền sư đủ điều…
Nhưng vốn điềm tỉnh, nhà sư chỉ biết mỉm cười thốt lên: “Thế ư?”. ai cũng nghĩ đó là một cách chịu tội. Ai cũng nghĩ rằng chính ông là tác giả của bào thai trong lòng người thiếu nữ. Khi đứa bé chào đời, thiền sự Hakuin lặng lẽ đến nhận nó và đưa về chiếc chòi nghèo nàn của mình. Ông bồng lấy nó, nâng niu nó và chăm sóc nó như chính đứa con ruột của mình.
Nhưng khoảng 18 tháng sau, người thiếu nữ bỗng hối hận về hành vi của mình. Cô thú nhận rằng người cha của đứa bé chính là chàng ngư phủ trẻ trong làng.
Nghe tin này, ai ai trong làng cũng cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ xấu và nhục mạ một con người đáng kính. Một lần nữa, dưới sự dẫn đầu của cha mẹ thiếu nữ, cả làng kéo nhau đến chòi của vị thền sư. Mọi người sụp lạy tỏ dấu sám hối vì đã xúc phạm đến thanh danh của vị đạo sĩ thánh thiện. Giữa lúc mọi người đồng thanh tuyên bố sự vô tội và cứu gỡ danh dự cho mình, vị thiền sư chỉ mỉm cười nói: “Thế ư?”.
Hai tiếng “thế ư” của thiền sư Hakuin trên đây xem chừng như cũng đồng một âm điệu với hai tiếng “xin vâng” của Mẹ Maria.
Thái độ điềm nhiên và tiếp nhận không chỉ là kết quả của một sự rèn luyện ý chí, nhưng còn là một thể hiện của niềm tin. Thưa xin vâng trước tiên có nghĩa là tuyên xưng tình yêu không hề lay chuyển của Thiên Chúa. Thưa xin vâng là chấp nhận đi vào chương trình của Thiên Chúa, trong đó cho dù phải trải qua tăm tối và thử thách, con người vẫn tin ở sự thành toàn.
Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin nơi chính bản thân: dù có yếu hèn, vấp ngã, con người vẫn luôn là đối tượng của một tình yêu chung thủy và là trọng tâm của một chương trình cao cả mà Thiên Chúa đang thực hiện.
Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin vào cuộc đời. Cuộc đời này, dủ có đen bạc đến đâu, vẫn luôn có một ý nghĩa và tha nhân, dù có thấp hèn xấu xa đến đâu, vẫn tiếp tục mang lấy hình ảnh cao vời của Thiên Chúa.
20. AI HƠN AI?
Trong một khu vườn tuyệt đẹp kia có nhiều loại hoa đua nhau khoe màu tranh sắc: Hoa Hồng, hoa Hướng Dương, hoa Vạn Thọ, hoa Cúc, kể cả vài cụm bông Móng Tay và bông Mười Giờ.
Một ngày kia, có người đến nhìn ngắm những bông hoa đẹp, rồi lấy một cây thướn ra đo chiều cao, chiều dài cũng như đếm số các nụ hoa. Xong ông ta bỏ đi.
Ý thức về chiều cao và độ lớn của mình, hoa Hướng Dương càng vươn cổ cao lên và nói: “Trong khắp khu vườn,không hoa nào lớn mạnh như chúng tôi”. Nghe nói thế hoa Hồng lên tiếng: “Nhưng không hoa nào đẹp và toả hương thơm ngát như chúng tôi”. Không chịu thua ai, hoa Vạn Thọ góp lời: “Hai người nói thế nghe sao phải, to lớn và thơm tho nào có ý nghĩa gì. Hai người làm gì có được nhiều bông hoa như chúng tôi”.
Nghe những loại hoa trên tranh luận, các loại hoa Cúc, hoa Móng Tay và hoa Mười Giờ cảm thấy tủi phận. Hoa Móng Tay tìm lời an ủi hoa Mười Giờ: “Bọn mình không đẹp không thơm, nhưng được cái là dễ trồng nên được nhiều người ưa thích”.
Sau đó, khu vườn trở lại yên lặng trong khoảnh khắc. Nhưng hoa Cúc phá tạn sự im lặng nặng nề với những phát biểu sau đây: “Sao các anh, các chị lại có thể suy nghĩ thế? Bởi đâu các anh các chị lại tranh nhau về chiều cao, về độ lớn, về vẻ đẹp, về hương thơm. Anh chị quên rằng: Dù lớn hay nhỏ, dù mạnh hay yếu, dù đỏ hay vàng, mọi bông hoa đều nhận lãnh hình hài, vẻ đẹp và hương thơm từ bàn tay của Đấng Tạo Hoá và dưới mắt người chúng ta đều như nhau. Mỗi bông hoa đều được Người ban cho đồng đều ánh sáng và hơi ấm của mặt trời. Mỗi bông hoa đều được Người cho mưa rơi xuống gốc và sương sa trên mình như nhau. Đó là mầu hiệm của lòng quảng đại và khoan nhân của Thiên Chúa.
Sự phân bì, ghen tương đã và đang làm khổ cho con người cũng bàng tính tự cao, tự đại hay ít ra tính phân bì, ghen ghét cũng làm cho chúng ta không được thư thái bình an. Vì thế, có người đã đề ra những phương pháp sau đây như những điều kiện để được hưởng sự bình an trong tâm hồn:
– Nếu tôi không so sánh mình với kẻ khác, tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc với những gì tốt đẹp nơi tôi.
– Nếu tôi không làm nô lệ cho sự thành công, tôi có thể sản xuất những thành quả tốt đẹp kẻ khác chờ đợi nơi tôi.
– Nếu tôi không để mình bị vướng vào mạn lưới của sự cạnh tranh, tôi sẽ thông phần và chia sẻ được những cái tốt đẹp hàm ẩn trong tất cả mọi người.
21. NHÂN DANH THIÊN CHÚA BA NGÔI
Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những tập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: “Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh”.
Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết “Trái đất tròn” trước một nhóm học giả được gọi là hội đồng Slamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: “Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quí vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi”.
Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1498, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là “Trinidad” tức là Chúa Ba Ngôi.
Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúngta được nhận lãnh phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúngta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh thần, cũng như mỗi lần chúngta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.
Cộng vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong toà cáo giải, chúng ta được giao hoà lạivới Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống đời hôn nhân. Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều kinh và những sinh hoạt bằng câu: “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”.
22. ROMEO VÀ JULIET
Một trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở bi kịch mang tựa đề “Romeo và Juliet” của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nang thuộc về hai gia đình có mối thù truyền kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại Italia thời trung cổ.
Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu đào: tình yêu kiêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm kết liễu phận bạc để cùng chết với chàng.
Hình như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy cũng nói lên một phần nào sự thật. Đó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in câu: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”.
Trong các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ giữa láng giềng, bè bạn, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị “yêu nhau cởi áo cho nhau” đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tuỵ, làm lụng vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau “Một câu nhịn, chín câu lành” đối với những người thân thương trong gia đình.
23. KHỐI ĐÁ CẨM THẠCH
Một lần kia các phụ nữ giàu có sinh sống tại thành phố Firenze, miền Bắc nước Italia nẩy ra sáng kiến góp một hối đá cẩm thạch lớn và thuê một nhà điêu khắc tạc thành bức tượng nào tuỳ ý, mà ông nghĩ là dân chúng sẽ ưa thích để làm quà cho thành phố.
Nhưng có lẽ đây không phải là một nhà khắc tượng có biệt tài hay vì khối đá bị xẻ không đúng theo qui luật điêu khắc, nên sau khi nghiên cứu một thời gian, ông ta không biết dùng khối đá để tạc tượng gì nên đành bỏ cuộc với lời quả quyết: “Đây là một khối đá vô dụng”.
Kể từ ngay ấy, khối đá cẩm thạch quí giá bị bỏ ngoài trời mặc cho mưa sa tuyết phủ. Một số nhà điêu khắc hác cũng được mời đến xem khối đá, nhưng sau khi nhìn ngắm và có người thử phác hoạ vài nép nháp trên giấy, tất cả đều lác đầu bỏ đi với cùng một ý kiến của nhà khắc tượng đầu tiên.
Cho đến một ngàu kia, Michelangelo, nhà điêu khắc và kiến trúc thời danh có dịp ghẻ thăm thành phố nhà. Không rõ có ai lưu ý ông về khối đá hay ông tình cờ khám phá ra, nhưng ông cảm thấy muốn tạc một bức tượng từ khối đá mà ai cũng cho là vô dụng.
Ông đo lại mọi kích thước. Ông bỏ hằng ngày nhìn ngắm khối đá để tìm hứng. Bỗng chốc ông chợt thấy thật rõ ràng một bức tượng mà ông xác tín là dân chúng thành Firenze sẽ rất mộ mến. Ông nhìn thấy hình chàng thanh niên David vai mang cái ná bắn đá, tay cầm những hòn sỏi, trong tư thế sẵn sàng ra chiến đấu với tên khổng lổ Goliát.
Những nhà khắc tượng khác đồng ý cho rằng đây là một khối đá vô dụng.
Nhưng dưới cặp mắt của Michelangelo khối đá ấy đã mang hình ảnh chàng thanh niên David, vị anh hùng dân tộc Do Thái và lập tức ông lây dụng cụ bắt tay vào việc, mặc cho những người tạc tượng khác lắc đầu mỉm cười ngụ ý nói rằng: đây thật là công dã tràng.
Nhưng Michelangelo vẫn miệt mài làm việc, gác ngoài tai những tiếng thị phi. Rồi cuối cùng, mỗi nhát búa, mỗi cái đục đẽo làm nổi hẳn dần một bức tượng chàng David hiên ngang, oanh liệt, mà trải qua bao thế kỷ vẫn làm say mê ngàn vạn du khách, trố mắt đứng nhìn một kỳ công tuyệt tác của nghệ thuật điêu khắc.
Không ai trong chúng ta là hối đá vô dụng khi được chọn để tạc thành những bức tượng tín hữu Kitô sống động dưới những nát búa, nét đục của Chúa Giêsu.
Lời Chúa và sự hiện diện của Ngài muốn tạo chúng ta thành những Kitô hữu xứng với danh gọi, nghĩa là giống Chúa Giêsu.
24. CÁI BÓNG
Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình… Nhưng càng trốn thì cái bóng càng đeo đuổi anh. Anh lăn lộn trên đất, anh đâm xuống nước, dù anh đi đâu, dù anh làm gì, cái bóng của anh vẫn còn đó.
Có một người khôn ngoan nghe chuyện mới đến cố vấn cho anh khờ. Người khôn ngoan ấy nói như sau: “Để thoát khỏi cái bóng của anh, anh chỉ cần đến đứng dưới bóng của một cây lớn.
Có nép mình dưới bóng cây thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của không biết bao nhiêu phù phiếm, hư ảo trong cuộc sống của chúng ta.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng nép bóng dưới cây thập giá của Chúa Giêsu. Con người ấy chính là thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, nhưng đồng thời cũng là người luôn nép bóng trong Chúa Giêsu.
Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của ngài trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Dưới cái nhìn của con người,m như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thương. Sự chào đời của ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị tiên tri được xem là cao cả nhất trong lịch sử Israel ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị tiên tri nào đã qui tụ được… Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.
Gioan nhỏ lại trong cái chết ấy, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong mầu nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về chính cái chết của Chúa Giêsu… Nhưng cũng chỉ trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa… Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là được bước đi trong từng bước nhỏ lại của ngài. Trong từng bước ấy, chúng ta hãy đặt mình dưới bóng vĩ đại của thập giá Chúa Giêsu. Chỉ trong chiếc bóng vĩ đại ấy của thập giá Chúa Giêsu, những nghịch cảnh, những đau thương, những nghi ngờ và ngay cả những cái chết từng ngày sẽ mang lấy ý nghĩa. Và ý nghĩa ấy là gì nếu không phải là sự lớn lên của Đức Kitô trong chúng ta?
Chúng ta có nhỏ lại trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong những ham muốn ganh tỵ bất chính của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong hận thù nhỏ nhen của chúng ta, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
25. LAU CHÙI LÀM GÌ?
Trong những mẩu chuyện giáo lý ngắn, Đức Gioan Phaolô I có thuật lại câu chuyện sau đây: “Những người xem thường việc năng đi xưng tội nhắc tôi nhớ đến anh giúp việc của ông Gioathan Swift. Một lần kia, sau khi ngủ đêm trong một quán trọ, ông Swift bảo người giúp việc đem cho ông đôi giày ống mà ông đã mang hôm qua. Khi thấy đôi giày còn dính đầy bụi đất của cuộc hành trình vất vả duyên qua những cánh đồng lầy lội, ông Swift nhíu mày tỏ vẻ khó chịu và bảo anh giúp việc: “Tại sao anh lại không lau chùi đôi giày cho sạch sẽ?”.
Thấy chủ bất bình và xẳng giọng, anh giúp việc hơi áy náy nhưng cũng gãi đầu, ấp úng thưa: “Tôi nghĩ là… lau chùi cũng không ích lợi gì. Và hôm nay, sau khi ông đi vài dặm đường, đôi giày lại dơ bẩn trở lại”.
Nghe người giúp việc biện luận như thế, ông Swift giả vờ gật đầu đồng ý rồi bảo người giúp việc: “Anh cho thắng yên ngựa, chúng ta khởi hành càng sớm càng tốt kẻo muộn”.
Một lúc sau, mọi việc đã được thu xếp xong và ông Swift ra lệnh lên đường. Nhưng người giúp việc chạy vội đến kèo nài:“Thưa ông, chúng ta không thể lên đường ngay được vì tôi chưa ăn sáng”.
Ông Swift vừa leo lên ngựa và bảo: “Ăn uống làm gì cho uổng công vì sau vài dặm đường, dạ dầy anh lại cồn cào kêu đói”.
Cũng thế, có nhiều người bảo: năng lãnh nhận bí tích Giải tội có ích lợi gì. Vì thông thường sau khi xưng tội, linh hồn chúng ta lại bị dơ bẩn trở lại vì những tội tái phạm. Có lẽ họ cũng có lý. Nhưng giữ linh hồn thanh sạch một thời gian, dù ngắn ngủi, cũng là một việc nên làm. Lại nữa, những người hiểu đúng ý nghĩa của phép Giải tội và xưng tội đúng cách sẽ được nghiệm thấy là phép Giải tội không những rửa sạch mọi tì ố của tội lỗi, nhưng còn hiệu lực giúp chúng ta tranh tái phạm những lổi lầm thường vấp ngã với mục đích củng cố tình thân hữu của mình với Đức Giêsu và sống trọn tình hiếu thảo Cha con đối với Thiên Chúa.
Không ai trong chúng ta dùng cơm xong lại thu dọn ngay những chén dĩa, nồi niêu đã dùng vào sóng chén, viện cớ là: rửa làm gì cho uổng công,đến bữa ăn sau chúng lại dơ bẩn trở lại.
Vâng, Đức Gioan Phaolô I dạy chúng ta: hãy năng đi xưng tội, dù biết rằng con người yếu đuối hay tái phạm những lỗi lầm mình đã vấp ngã. Và trong lúc lãnh nhận phép Giải tội, hãy nhớ lời Đức Giêsu bảo người phụ nữ ngoại tình: “Này chị, những kẻ tố cáo chị đâu cả rồi,không ai lên án chị ư? Ta cũng vậy, Ta không lên ái chị. Hãy về và từ nay, đừng phạm tội nữa”.
26. BẰNG LÒNG VỀ CHÍNH MÌNH
Hans Christian Andersen, văn sĩ Đan Mạch sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ 19, là tác giả của những câu chuyện dạy đời bất hủ. Ông có kể câu chuyện như sau:
Có một đôi vợ chồng già nọ sống bên nhau rất hạnh phúc. Thật ra người nắm giữ bí quyết hạnh phúc trong gia đình này chính là người vợ. Lúc nào bà cũng hài lòng về bất cứ hành động nào của người chồng. Một hôm, người vợ đề nghị với chồng là nên bán bớt một con bò. Thật ra tất cả tài sản của họ chỉ là đôi bò.
Người chồng tán thành ý kiến của vợ. Ngay từ sáng sớm, ông dắt bò ra chợ. Nhưng đường dài,mặt trời mỗi lúc một chói chang. Con bò già lại không thể bước nhanh. Do đó, khi thấy một người nông dân khác cũng đang dắt heo ra chợ bán, người chồng mới có ý nghĩa đem đổi bò lấy con heo. May ra, con heo có thể đi nhanh hơn không?
Đổi được con heo và đi được một quảng đường, người chồng lại cảm thấy không thoải mái chút nào. Con heo cứ muốn đi theo hướng của nó. Vừa bực tức với con heo, ông lại thấy một ngươi nhà quê khác cũng đang dắt dê ra tỉnh. Ông nghĩ rằng dê có thể là con vật ít cồng kềnh hơn con heo, cho nên ông mới nấn ná đến người chủ dê để đề nghị hoán đổi.
Đổi được con dê, người đàn ông cảm thấy như nhẹ nhỏm trong người. Nhưng chỉ trong vài phút đồng hồ, ông mới khám phá được cái tính bất thường của loài dê. Nó chạy bên này, nhảy bên kia, nó đưa sừng húc khắp mọi nơi… giữa lúc ông ngán ngẫm với con dê, thì bỗng đâu một người nhà quê khác tiến lại gần ông với cả một đàn ngỗng. Con ngỗng dầu sao cũng ít cồng kềnh hơn con dê. Nghĩ vậy cho nên ông mang con dê đến đổi lấy một chú ngỗng trắng. Ôm lấy chú ngỗng vào lòng, người đàn ông cảm thấy thoải mái hơn bao giờ hết. Ông tin chắc là mình sẽ đến chợ sớm hơn. Nhưng chưa đến chợ, thì ông lại thấy một người buôn gà. So sánh gà với ngỗng, dĩ nhiên gà phải nhẹ hơn… Tính toán mãi, cuối cùng, ông đã đem chú ngỗng đến đổi lấy một con gà.
Mặt trời mỗi lúc một lên cao. Cơn khát như muốn đốt cháy cổ họng ông, bụng ông lại trống rỗng. Vừa thấy một quán ăn bên vệ đường, người đàn ông không còn cầm được cơn cám dỗ. Ông đành phải đem con gà bán đi với giá một đồng bạc. Một đồng này vừa đủ cho một bữa ăn trưa cộng với một ly bia.
Những người đàn ông trong quán ăn biết câu chuyện mới tỏ ra ái ngại cho giây phút ông phải đối đầu với người vợ. Thế nhưng,con người luôn luôn được vợ hài lòng ấy vẫn tỏ ra bình thản. Ông tin tưởng rằng vợ ông sẽ không bao giờ trách móc ông. Một người đàn ông có máu cờ bạc, không tin ở thài độ của bà vợ ông, cho nên mới đề nghị đánh cá. Ông ta đưa ra hai mươi đồng và đi theo người đàn ông về đến nhà. Ông núp một nơi kín đáo để theo dõi phản ứng của người vợ.
Quả thực, người đàn ông bắt đầu báo cáo lại cho vợ từng chi tiết của những cuộc trao đổi của ông. Cứ mỗi lần người đàn ông kể lại một cuộc đổi chác của mình, người vợ đều tỏ ra hài lòng. Khi người đàn ông kể đến chuyện ông bán con gà được một đồng và vào quán ăn trưa, người vợ mới mỉm cười thốt lên như sau: “Tạ ơn Chúa, cũng may là mình bán được con gà. Như vậy mình có thể ngủ yên mà không sợ tiếng gà gáy phá giấc”. Điều quan trọng đối với tôi là biết rằng mình thoả mãn là được”.
Người chồng thắng được vụ cá cuộc. Ông được 20 đồng, số tiền còn lớn hơn cả giá bán con bò.
hãy đón nhận từng phút giây hiện tại với hân hoan, cảm mến, Hãy làm công việc trong phút giây hiện tại như là công việc quan trọng nhất. Hãy đón tiếp người trước mặt như người quan trọng nhất. Hãy chấp nhận mọi người với cảm thông, tha thứ và lạc quan. Hãy chất nhận chính bản thân với sự bằng lòng, thoải mái: đó là tất cả bí quyết của hạnh phúc mà chúng ta cần phải nắm lấy.
27. CON CHIM TRONG BÀY TAY
Người Ba Tư có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Ngày xưa, tại quảng trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố giải đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.
Một hôm, giữa đám người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử trên núi cao đến. Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông.
anh tiến đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. Anh đặt câu hỏi như sau: “Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc thông thái biết được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?”.
Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu ông bảo rằng con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi mở bàn ta ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn ngoan ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau một hồi thinh lặng, trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau: Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tuỳ ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó chết”.
Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc hơn là hưởng nếm chính hạnh phúc đang cầm trong tầm tay của chúng ta. Hạnh phúc đích thực chính là con chim mà mỗi người chúng ta đang có trong lòng tay. Con chim ấy sống hay chết là tuỳ ở mỗi người chúng ta. Chúng ta được hạnh phúc, chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta.
Hạnh phúc đích thực của chúng ta,niềm vui đích thực của chúng ta chính là Thiên Chúa. Nếu chúng ta để cho Thiên Chúa chiếm ngự, nếu chúng ta để cho Thên Chúa lấp đầy, thì cho dẫu ngoại cảnh có là bầu trời đen tối đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy an bình, hạnh phúc.
Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa chiếm trọn tâm tư, lấy Chúa làm tất cả trong cuộc sống, chúng ta sẽ có được niềm vui đích thực.
28. NGỢI KHEN CON NGƯỜI
Trong tập thơ có tựa đề “Nhật ký”, nữ thi sĩ công giáo Pháp là Marie Noel đã tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Hôm đó là ngày cuối năm. Từ trên thiên quốc nhìn xuống dương trần, Chúa thầy dân chúng đổ xô về một ngôi nhà thờ đổ nát, không có chuông, cũng chẳng còn tháp chuông. Vị linh mục già đành p hải khua mõ vào bất cứ đồ vật nào có thể gậy ra tiếng vang để giục giã dân chúng đến giáo đường đọc kinh “Te Deum” ngợi khen Chúa nhân ngày cuối năm.
Trời mưa lạnh như cắt. Vậy mà, từ khắp nơi trong xóm giáo, người ta vẫn đổ xô về ngôi giáo đường. Chúa theo dõi từng cử động một của một người đàn bà đơn độc mà ngôi nhà vừa bị thiêu rụi trong một trận hoả hoạn. Chúa lại nhìn thấy một thiếu phụ mà cách đó không lâu bọn Đức quốc xã đã tước đoạt mọi tài sản. Một người đàn bà khác, mà chồng con đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến đến nhà thờ. Có cả thiếu phụ mất con mà người ta không tìm ra tung tích. Có cả người đàn ông mà vợ và con bị chôn vùi dưới đống gạch vụn… Còn bao nhiêu người khốn khổ khác nữa. Họ không biết đi đâu, họ không có gì để ăn bởi vì quân thù đã đốt phá và cướp đi tất cả những lương thực dự trữ.
Vậy mà những người khốn khổ ấy có mặt đầy đủ trong ngôi giáo đường. Có một vài tiếng khóc. Nhưng tất cả đều lớn tiếng hát bài “Te Deum” ngợi khen Chúa trong ngày cuối năm vì những ơn huệ Ngài đã ban trong năm qua.
Nhìn thấy cảnh tưởng ấy cũng như lắng nghe lời ca ngợi của những con người khốn khổ, Thiên Chúa vô cùng cảm động. Ngài nói với các thiên thần như sau: “quả thực, quả thực, Ta bảo các ngươi: con người là loài thụ tạo thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám người đáng thương kia. Cách đây 12 tháng, họ đã phó dâng cả năm cho Ta để được hạnh phúc, khang an. Vậy mà tai ương và thảm sầu đã xảy đến cho họ… Họ đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh đã đè bẹp họ. Họ đã xin lương thực hằng ngày, nhưng họ chỉ gặp toàn là đói khát. Họ đã phó dâng cho Ta gia đình, người thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc, gia đình và người thân của họ lại bị xâu xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý do riêng của Ta… Ta không thể thanh tẩy thế giới mà không thử thách nó như thời Noe. Nhưng đây là công việc của một Thiên Chúa, không ai có thể hiểu được việc Thiên Chúa làm. Nhưng con người lại phải gánh chịu mọi sự. Vậy mà họ vẫn tiếp tục ngợi khen và cảm tạ Ta cứ như Ta đã bảo vệ họ trong từng phút giây của cuộc sống họ… Quả thực, lòng tin của họ lớn lao… Các người có nghe họ hát “thánh, thánh” với tất cả trang trọng không? Hỡi các thiên thần và các thánh, nào các ngươi hãy hát lên một bài ca để tôn vinh những ai, mặc dù gặp gian lao khốn khổ vẫn lên tiếng tôn vinh Ta”.
Nói xong, Thiên Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất lên bài ca “ngợi khen con người”.
Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không thể không say mê con người, Ngài không thể không chung thuỷ với con người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc sống hiện tại và những khắc khoải âu lo cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục dâng trọn niềm tín thác cho Chúa.
Tin tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người. Tình người dù có bội bạc, mỗi một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu, cung vẫn còn chất chứa trong đáy thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời phản ảnh chính tình yêu của Thiên Chúa. Đáp lại với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với những thấp hèn đê tiện, người có niềm tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người hãy hãy giữ mãi nụ cười của cảm thông, tha thứ và yêu thương.
29. NGÀI LÀ CHA TÔI
Chuyện cổ Roma thường ghi lại những cuộc chiến thắng khải hoàn của các vị hoàng đế. Sau một lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng dẫn các đoàn quân tiến qua các ngã phố cho dân chúng tung hô.
Lần kia, các đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một khán đài đặc biệt để hoàng gia có thể theo dõi cuộc diễn hành. Khi hoàng đế và binh đội tiến đến gần khán đài nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ đợi, người ta kinh ngạc vô cùng vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và chạy vụt đến chiến xa của hoàng đế.
Những người vệ binh có trách nhiệm giữ an nhinh hai bên đường đã chận hoàng tử lại. Họ giải thích cho cậu biết rằng: xa giá đang tiến lại gần chính là xa giá của hoàng đế. Không ai được phép đến gần… Vị hoàng từ nhỏ điềm nhiên trả lời: “Ngài là hoàng đế của các ông, nhưng đối với tôi thì ngài là cha tôi”.
“Ngài là cha của tôi”: đó phải là danh xưng mà chúng ta có quyền sử dụng để gọi Thiên Chúa. Đó cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ mật thiết mà Thiên Chúa luôn muốn thắt chặt với từng người trong chúng ta.
“Ngài là cha của tôi”: danh xưng ấy cũng cho phép cúng ta khẳng định về gí trị của con người chúng ta. Dù chúng ta có bất tài, yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta có thể gọi Chúa là cha.
“Ngài là cha của tôi”: danh xưng ấy không cho phép chúng ta thất vọng về chính mình. “Hãy trở nên chính mình”. Đó là mệnh lệnh mà Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta và yêu thương chúng ta vì những cá biệt của từng người.
Hôm nay chúng ta mừng trọng thể hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai cột trụ của Giáo Hội, nhưng đồng thời cũng là hai tính khí khác nhau, có khi lại xung khắc nhau.
Một người xuất thân là một dân chài, nóng nảy, cục nịch. Một người xuất thân là một thư sinh học rộng, hiểu sâu.
Hai trình độ khác nhau, hai tính tình khác nhau, nhưng mẫu số chung nối kết hai tâm hồn: đó là cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Cuộc gặp gỡ ấy cũng diễn ra trong hai trường hợp khác nhau. Một người chỉ thực sự khám phá ra con người của Đức Kitô sau ba lần phản bội. Một người chỉ nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn đệ của Ngài… Một người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sám hối, một người đã gặp gỡ Ngài sau một lần ngã ngựa đớn đau.
hai tính khí khác nhau, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo Hội của Chúa.
Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô vừa là hình ảnh đa diện phong phú của Giáo Hội, vừa là biểu trưng của tình yêu của Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong sự yếu hèn, thiếu sót của chúng ta. Tình yêu đó không đòi hỏi chúng ta phải chối bỏ con người tự nhiên của chúng ta. Trái lại Chúa muốn sử dụng tất cả những khuyết điểm, những giới hạn của con người chúng ta để làm nổi bật sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài.
30. CHIẾC CẦU CỦA GẶP GỠ
Vào khoảng năm 1850, hoạ sĩ tài ba của Hoa Kỳ là James McNeil Whisler đang còn là một thanh niên đầy nhiệt huyết. Mặc dù có tâm hồn nghệ sĩ, Whisles cũng đăng ký vào trường đại học quân sự West Point.
Người ta kể lại rằng khi giáo sư ra đề tài vẽ về một chiếc cầu, dĩ nhiên, các sinh viên phải hiểu đây là một chiếc cầu cần được thiết kế trong mục tiêu quân sự. Thế nhưng, tâm hồn nghệ sĩ của Whisles đã không đếm xỉa gì đến khía cạnh quân sự. Anh vẽ một chiếc cầu thơ mộng bắc qua một mõm núi thơ mộng. Dọc theo hai bờ sông là một tấm thảm cỏ xanh tươi. Nhưng thơ mộng hơn nữa là có hai đứa bé đứng câu cá trên chiếc cầu ấy.
Ông giáo sư cầu cống không ưng ý chút nào, nên đã ra lệnh cho anh phải bôi đi hình ảnh của hai đứa bé. Viên sĩ quan bèn di chuyển hai cậu bé từ chiếc cầu xuống thảm cỏ bên bờ sông. Lần này, ông giáo sư lại càng giận dữ hơn. Ông quát tháo ầm ĩ: “tôi đã bảo anh phải cất chúng ra khỏi bức tranh”.
Nhưng con người có tâm hồn nghệ sĩ xem chừng như không thể vẽ cảnh thiên nhiên mà thiếu bóng dáng của con người. Không được sáng tác theo ý mình muốn, Whisler bèn vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ dọc theo dòng sông và muốn ông giáo sư hiểu ngầm rằng anh đã chôn hai cậu bé trong hai cái mộ ấy.
Chiếc cầu được bắc qua dòng sông là để nối liền hai bờ sông và chiếc cầu nối liền hai bờ sông là để cho con người ở hai bờ sông được liên lạc với nhau. Thiếu sự đi lại của con người thì chiếc cầu trở thành vô nghĩa.
Chúa Giêsu là chiếc cầu nối liền trời cao và đất thấp. Nơi Ngài, con người và Thiên Chúa gặp gỡ nhau. Chỉ trên chiếc cầu của Đức Kitô con người mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau.
Ngài sinh ra trong một gia đình, Ngài lớn lên trong một gia đình. Ngài đến để qui tụ tất cả nhân loại thành một gia đình. Con đường cứu rỗi của ngài là con đường mở rộng cho mọi người cùng nắm tay đi với nhau. Chiếc cầu nối liền Thiên Chúa và con người là chiếc cầu của gặp gỡ, của cảm thông,của yêu thương. Chúng ta chỉ có thể đi về cõi phúc trên chiếc cầu của gặp gỡ, của yêu thương ấy.