Suy Niệm Lẽ Sống Tháng 4

Suy Niệm Lẽ Sống Tháng 4

 

1. TU ĐÂU CHO BẰNG TU NHÀ THỜ CHA KÍNH MẸ MỚI LÀ ĐẠO CON

Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để tâm phụng dưỡng song thân.

Một hôm ông nghe nói bên Đất Thục có ông Võ Tế dại sĩ.Dương Phũ bèn xin tư biệt song thân dể dến thụ giáo bật hiền triết .

Đi được nửa đường,ông gặp một vị lão tăng.Vị lão tăng khuyên Dương Phủ:“Gặp dược bật Võ Tế chẳng bằng được Phật”

Dương phủ dặn hỏi:“Phật ở đâu?”.Vị lão tăng giải thích:“Nhà ngươi cứ quay trở về,gặp người nào mặt cái áo sắc như thế này,đi đôi dép kiểu như thề này thí chính là Phật ấy”.

Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Đi dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương Phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà vị lão tăng đã mô ta.

Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.

Thứ nhất thì tu tại gia Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa tu đâu cho bằng tu nhà thờ cha kính mẹ mới là đạo con.

Để yêu thương con người một cách trọn vẹn, CHúa đã trở thành một con người. Chúa co cha, có mẹ. Chúa sinh ra trong một gia đình… Con người không phải chỉ được cứu rỗi một cách lẻ loi, nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để sinh ra, để lớn lên và thành toàn… Tại Nagiarét, Chúa đã lớn lên trong ân sủng và dáng vóc. Chúa đã vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc, học viết và ngâm nga từng câu Kinh Thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử dụng từng dụng cụ trong xưởng mộc của thánh Giuse.

Trong ba năm sống đời công khai, ngôn ngữ và cách suy nghĩ của Chúa phản ánh phần nào sự giáo dục mà Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.

Xin Chúa thánh hoá tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài… Và xin cho mọi người Việt Nam luôn biết đấu tranh để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.

2. VE SẦU KÊU VE VE

“Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè. Đến kỳ gió bấc thổi, nguồn cơn thật bối rối…”.

Trên đây là bốn câu trong bài thơ mà cụ Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch từ chuyện ngụ ngôn “Con ve và con kiến” của thi sĩ Pháp La Fontaine.

Ở Việt Nam chúng ta cũng như tại nhiều nước trên thế giới, cứ mỗi độ hè về là ve sầu xuất hiện và kêu inh ỏi.

Theo sinh vật học thì có đến 23 loại ve sầu, mỗi loại có chu kỳ khác nhau: Loại 2 năm,loại 3 năm, loại 17 năm vv… Trước khi xuất hiện trên mặt đất, ve đã làm kiếp nhộng sống ngần dưới đất đến 17 năm. Ngay sau khi ra khỏi trứng, nhộng đã chui xuống đất và sống yên lặng 17 năm.

Sinh vật học còn cho rằng khi chu kỳ 17 năm chấm dứt, các con nhộng này có thể nghe được một tín hiệu bí mật kêu chúng ra khỏi lòng đất và hàng trăm triệu con nhộng đáp đáp lại tiếng kêu gọi đó, bò lên mặt đất, tìm cây cối hay vật gì thẳng gốc với mặt đất để bám chặt vào, rồi lột vỏ, biến thành con vẻ với hai cánh dài để bay… Nhưng cuộc sống của ve rất ngắn ngủi: vì chúng chỉ sống được năm tuần lễ vừa để để làm một công tác duy nhất là đẻ trứng rồi chết.

Kiếp sống của con ve sầu có thể làm cho chúng ta liên tưởng đến cuộc đời của Chúa Giêsu trong 33 năm sống kiếp con người, Ngài đã sống ẩn dật đến 30 năm.

Nếu đối với kiếp ve sầu, 17 năm sống dưới đất như nhộng không phải là vô ích, thì với Chúa Giêsu, 30 năm sống ẩn dật của ngài cũng mang một ý nghĩa và giá trị đặc biệt. Kiếp sống lam lũ củ một người thợ mộc, những vất vả trong cuộc sống hằng ngày: tất cả đều mặc cho cuộc sống con người một ý nghĩa.

Chúa Giêsu đến để chiếu rọi ánh sáng vào cuộc sống con người. Ánh sáng đầu tiên đã được chiếu rọi vào cuộc sống chúng ta chính là những năm tháng ẩn dật ấy của Chúa Giêsu. Trong ánh sáng ấy, chúng ta sẽ hiểu được rằng dù nghèo hèn đến đâu, dù tối tăm đến đâu, công việc từng ngày của chúng ta là những đóng góp vào công cuộc cứu rỗi của Chúa. Con ve sâu phải tôi luyện trong suốt 17 năm trời mới có thể xuất hiện để sinh ra một mầm sống mới. Những lam lũ vất vả từngg ngày của người Kitô chúng ta cũng có sức mang lại mầm sống mới cho rất nhiều người.

Ước gì ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu rọi vào cuộc sống của chúng ta, để, dù phải vất vả lao nhọc và đau khổ từng ngày, chúng ta luôn vui vẻ tiến bước vì tin rằng cuộc sống của chúng ta đang mang lại sức sống cho nhiều người.

3. GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG

Ngày 10 tháng 3 Âm lịch là ngày giỗ tổ Hùng Vương…

Theo tục truyền, vua Đế Minh là cháu ba đời vau Thần Nông đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Linh (nay thuộc tỉnh Hà Nam) gặp một nàng tiên, lấy nau đẻ ra một người con gọi là Lộc Tục. Sau, Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.

Ranh giới nước Xích Quỷ lúc bấy giờ phía bắc giáp Động Đình Hồ, tức Hồ Nam, phía Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba thục, phía Đông giáp bể Nam Hải.

Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (tức là năm 2879 trước Tây lịch) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, gọi là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ đẻ ra một lần 100 con trai.Sau này, Lạc Long Quân chia cho nàng 50 con đê dắt lên núi, còn 50 con, ông đưa về hướng biển Nam hải.

Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, sáng lập ra nước Việt Nam sau này…

“Vật đổi sao dời, phúc tổ vẫn lưu nền cổ tích Nước nguồn cây cối, người nên nhớ mộ Hùng Vương”.

Hai câu thơ khuyết danh này như muốn nhắc nhở chúng ta về công đức của tổ tiên. Ngày 10 tháng 3 Âm lịch, chúng ta không biết là ngày huý nhật của vua Hùng Ương nào, chỉ biết rằng người xưa đã biết chọn một ngày để con cháu về sau muôn đời có dịp tụ họp nhau lại mà nhớ đến tổ tiên, nhớ đến công đức của người đã sáng lập ra dòng họ, nhất là sáng lập ra quốc gia.

Cách đây vài năm, tổng thống Reagan của Hoa Kỳ đã về thăm Ái Nhĩ Lan. Ông muốn nói lên mối dây liên kết giữa ộng, những người da trắng đang sinh sống tại Bắc Mỹ và tổ tiên của họ… Là người, ai cũng thấy cần có một tổ quốc, một quê hương trong đó cả một giòng giống được phát sinh và liên kết với nhau.

Cũng như gất cả những người tha hương, những người Việt Nam đang sống ở hải ngoại lúc nào dũng hướng về quê hương của họ. Quê hương là một cái gì vô cùng cao quí và thiêng liêng mà chỉ khi nào mất đi người ta mới cảm thấy luyến nhớ. Nhưng nói đến quê hương không có nghĩa là gợi lại một mảnh đất, một phong cảnh, một dòng sông… Nói đến quê hương là nói đến những người cùng bởi một ông tổ mà ra, những người cùng nói chung một thứ tiếng, những người có cùng một màu da, hay nói như người Việt Nam chúng ta, những người đồng bào, nghĩa là những người cùng chung một cái bọc mà sinh ra… Đó là ý nghĩa của huyền thoại 100 cái trứng, trong câu chuyện lập quốc của chúng ta.

Nhưng những người công giáo không chỉ ý thức về tình máu mủ ruột thiệt của những người cùng một dân tộc, họ còn có một gia đình rộng rãi hơn: đó là gia đình nhân loại.

Nha vô thần Voltaire đã nói: Nếu Thiên chúa không có thì chúng ta phải tạo ra ngài… Vì sao thế? Thưa để cuộc đời chúng ta có một ý nghĩa, để chúng ta biết chúng ta cùng có chung một người Cha, và tất cả mọi người, dù không đồng một ngôn ngữ, dù không đồng một màu da, tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. VÀ kết luận tất yếu của chân lý đó là: chúng ta phải yêu thương nhau.

Người trong cùng một nước, có cùng một ông tổ phải thương yêu nhau vượt lên trên tất cả mọi khác biệt về địa lý, về tôn giáo, về quan điểm chính trị.

Đó là tất cả ý nghĩa dủa ngàu giỗ tổ Hùng Vương mà chúng ta cử hành hằng năm. ngày giỗ tổ ấy cùng còn mời gọi chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn nhận mọi người đều là con cái Chúa và đều là anh em với nhau.

4. ĐÁNH NHAU BẰNG GẬY GỘC

Hoạ sĩ Goya,người Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ 19, đã để lại một loạt những bức tranh mô tả thân phận don ngời thật ý nghĩa. Một trong hoạ phẩm mà ông đã thực hiện trong thời nội chiến của ngời Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ thứ 18 mang đề tựa: “Đánh nhau bằng gậy gộc”

Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân đang xô xát nhau. Mỗi người cầm trong tay mộc chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ chiếc dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời không để lộ một nét nổi bật nào. Người ta không đoàn được trời sắp giông bão hay sắp sáng rỡ.

Thoạt nhìn qua ai cũng nghĩ đây chỉ là một bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: đó là hai người nông dân đang hầm hầm sát khí để loại trừ nhau này lại mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối.

Goya muốn cho chúng ta thấy rằng cả hai ngươi nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng trên nhau cho bằng chính cát bụi đang từ từ chôn vùi họ. Thế nhưng thay vì giúp nhau để ra khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào thú dữ: họ cắn xé nhau. Hoạ phẩm “Đánh nhau bằng gậy gộc” trên đây của danh hoạ Goya nói lên phần nào tình cảnh mà nhân loại chúng ta đang trải qua. Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tại hoạ, con người lại giành giựt chém giết lẫn nhau.

Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở ui mô thế giới, một nơi nào đó ngoài cuộc sống của chúng ta,mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của chúng ta với những người xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gậm nhắm tâm hồn chúng ta.

Bức tranh của hoạ sĩ Goya cũng chính là bức tranh của thân phận con người chúng ta. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe doạ tứ phía, thay vì liên đới để bảo vệ nhau, người ta vẫn có thể đâm chém lẫn nhau.

Một nhạc sĩ nào đó đã có lý để tra vấn chúng ta: giết người đi thì ta ở với ai? Một trong những phương thế tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn.

Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta khuôn vàng thước ngọc: nếu có ai vả má bên phải của ngươi, hãy chìa luôn cả má còn lại… Trong những giờ phút cuối đời, khi đứng giữa những người đang đằng đằng sát khí muốn huỷ diệt mình, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho họ.

5. CHIẾC BONG BÓNG BAY

Câu chuyện được thuật lại xảy ra tại vùng Nam Italia, nơi dân chúng không được sung túc cho lắm, so với những vùng khác. Câu chuyện mang tựa đề là “Chiếc bong bóng bay màu hồng”.

Chiếc bong bóng này là kết quả của sự góp nhặt và tiết kiệm từng xu của Beppo, một em bé lên tám. Hôm ấy, trong lúc các trẻ đồng tuổi cắp sách đến trường, Beppo trốn học, chạy nhanh lên ngọn đồi để thả chiếc bong bóng màu hồng bay lên không trung. Cùng với chiếc bong bóng, Beppo cẩn thận cột bức thư nó đã nắn nót viết từng chữ như sau: “Chúa ơi, vài tuần nữa con sẽ có một đứa em. Gia đình con đã có 6 anh em, nhưng cha mẹ con nghèo lắm. Nhà cửa chật chội và không có đủ giường, chiếu, nên chúng con phải ngủ chung 3 đứa một giường. Lần này con không xin gì cho con, nhưng con xin Chúa cho đứa em sắp sanh của chúng con một ít quần áo và tả, quần áo xài rồi cũng được. Nhà con ở lang Arcole miền Nam nước Italia. Con tên là Beppo Sala”.

Sau khi thả chiếc bong bóng hồng mang bức tâm thư lên trời, Beppo đứng ngước mắt nhìn lên trời mãi cho đến khi chiếc bong bóng mất hút trong đám mây, nó mời thơ thẩn đi về nhà.

Những ngày sau đó là những giờ phút hồi hộp nhất đời của Beppo. Nhưng nó vẫn tiếp tục hy vọng và cầu nguyện. Sáu ngày nặng nề trôi qua, nhưng một buổi kia, lúc đang chơi với các trẻ khác cùng xóm, Beppo thấy người giao bưu phẩm mang vào nhà một thùng quà. Nó hồ hởi chạy nhanh về và nghe cha nó đang lớn tiếng cãi vã với nhân viên bưu điện: “Chắc anh lầm rồi, tôi đâu có ai quen ở thành Rovigo. Vả lại chúng tôi đào đâu ra tiền để mua quà cáp”. người giao bưu phẩm phân trần: “Món hàng đề tên và địa chỉ nhà ông, nếu không phải gởi cho ông thì còn gởi cho ai nữa? Ông nhận nhanh lên, tôi còn phải đi giao nhiều món hàng nữa chứ có phải chỉ có thùng này thôi đâu”. Cha của Beppo trả lời: “thôi đi ông ơi,nhận hàng không phải của mình để rồi sau đó mang hoạ, làm gì có tiền mà bồi thường”.

thấy câu chuyện dai dẳng, Beppo bạo phổi nói chen vào: “thì cha cứ mở ra xem thử, nếu không phải là của mình thì mình gói trả lại”.

Thùng đồ được mở ra, thấy đoàn đồ cho trẻ sơ sinh. Nào tả, nào những chiếc áo nhỏ tí ti, nào băng rốn. Người gởi không quên gói vào 2 hộp phấn à một lố những chiếc kim tây. Mắt của mẹ Beppo bừng sáng lên. Beppo cảm thấy vui như ngày tế, vui nhất là người gởi đồ không đề địa chỉ nên không thể gởi trả lại. Nó chạy nhanh ra ngọn đồi, nơi nó thả chiếc bong bóng màu hồng 6 ngày trước đây. Đến nơi nó ngước mắt nhìn trời,miệng thì thầm: “Chúa ơi, con cám ơn Chúa”.

tuổi trẻ thường được gọi là tuổi thơ, mà nói đến tuổi thơ là nói đến mộng. Trẻ thơ thường có những mơ ước đơn sơ: mong bắt được nhiều dế, mơ con diều mình đang thả được bay cao, mong cho mình khéo tay ăn được nhiều đạn trong cuộc chơi bi, mơ đội banh mình được thắng trong cuộc đá bóng sắp tới. Nhưng có những mái đầu xanh đã bắt đầu lo lắng cho cha mẹ, cho anh chị em như trong trường hợp của em bé mới lên 8 tuổi Beppo.

theo cha Michel Bonnet, đã từng truyền giáo tại Nhật bản và nay đang làm việc cho phong trào quốc tế đặc trách mục vụ cho trẻ em, thì tại Á Châu, số trẻ em vì hoàn cảnh gia đình hay xã hội bắt buộc phải làm những công việc nặng nhọc vượt quá tuổi của chúng nhiều hơn là số trẻ em được cắp sách đến trường.

Cũng theo cha Bonnet, đã đến lúc các tín hữu phải đọc dòng phúc Âm mà mọi ngươi đều thuộc nằm lòng, nhưng với cái nhìn khác: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Ta, chớ ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những trẻ giống như chúng”.

Và cha Bonnet đề nghị: câu Phúc Âm trên tạo dịp cho chúng ta thấy Chúa Giêsu trong những trẻ con bị cưỡng bách phải làm việc nặng nhọc. Qua các em, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta: “Hãy đến và theo Ta”.

6. MÓN QUÀ CƯỚI ĐẸP NHẤT

Mẹ Têrêxa thuật lại một câu chuyện như sau: “Một hôm kia, có một cạp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo”.

Ở Calcutta, mọi người đều biết là: mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ tử Bác ái truyền giáo chúng tôi phải chung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tăng vào mục tiêu trên.

Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: “Hai con có thể cho mẹ biết tiên đâu mà hai con có nhiều thế?”. Họ trả lời: “Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cứơi, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí vào đám cưới đó để trao tặng cho những người không được may nắm như chúng con”.

Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: “Ở Ân Độ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chăn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đang trai cũng như đàng gái”.

Để biết rõ thêm, mẹ Têrêxa hỏi: “Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?”. Hai bạn trẻ đó trả lời: “Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng dươn muốn tặng nhau một quà cưới thật đặc biệt. Chúng con muốn cởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào”.

Trong sứ điệp mùa Chay gởi toàn thể Giáo Hội, công bố vào ngày 9/2/1988, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy đặc biệt quan tâm đến tình trạng mỗi ngày có hàng chục ngàn trẻ em trên thế giới bị chết yểu.

Đức thánh Cha nói: “Có những trẻ em chết trước khi chào đời. Nhiều em khác chỉ sống được một thời gian ngắn vì bệnh tật, vì thiếu dinh dưỡng và nhiều khi thiếu cả tình thương nữa… Các em là nạn nhân của nghèo đói, của những bất công xã hội làm cho gia đình các em không đủ phương tiện cần thiết để nuôi dưỡng con cái”.

Ngoài ra, sứ điệp mùa Chay của Đức thánh Cha còn nhắc lại tình yêu thương đặc biệt của Chúa Giêsu đối với các trẻ em và ngài mời gọi mọi tín hữu trong mùa Chay hãy bẻ gãy xiềng xích của tính ích kỷ và tội lỗi, đồng thời thực thi tình liên đới,bằng cách chia sẻ với những người túng thiếu. hãy cho người nghèo không phải những thứ mình dư thừa, nhưng cả những gì mình cần thiết nữa.

7. BÌNH AN TRONG TÂM HỒN

Purna, một môn đệ của Đức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng cón bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi lại cuộc đối thoại giữa hai thầy trò như sau: Đức Thích Ca cho biết ý kiến: “Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác, Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo đê nói xấu, mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?”. Purna thưa: “Nếu thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành ừa thân thiện, vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng võ lực, không đánh đập hay ném đá con”. Đức thích Ca tiếp lời: “Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?”. Purna thưa: “Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa- Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh đoàn và công dùng khí giới sắt bén để sát hại con”.

Nghe môn đệ xác quyết như thế, Đức Phật không khỏi ngạc nhiên, Ngài hỏi tiếp:“Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?”. Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp: “Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người thật tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này”. Nghe đến đây, Đức thích Ca bảo: “Purna, con đã tu tâm dưỡng tánh đến nơi đến chốn để có được sự ôn hoà, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét”.

Thiết nghĩ tự tạo cho mình sự an bình trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng ta. Và theo kinh nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên,để tạo cho mình nền hoà bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến, nghi kỵ cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.

8. CÁI NÀY CỦA TÔI

hai hiền nhân đã chung sống với nhau dưới một mái nhà trải qua nhiều năm tháng, nhưng công bao giờ họ lớn tiếng cãi vã nhau. Một hôm kia, một người có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Ông bảo bạn:

“Ít ra là một lần, tôi muốn chúng ta phải cãi vã nhau, như chúng ta thấy thiên hạ thường làm”.

Ông kia không khỏi ngạc nhiên về ý nghĩ kỳ lạ này, nhưng chiều bạn, ông ta ỡm ờ hỏi: “Cãi vã thế nào được, ít ra chúng ta phải tìm ra một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ”. Người ó ý kiến phải cãi nhau đề nghị: “Này nhé, dễ lắm! Tôi để một viên đá ra giữa sân và quả quyết viên đá này là của tôi. Ông phải phùng mang trợn mắt, đỏ mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: làm gì có chuyện đó, viên gạch là của tôi. Rồi sau đó chúng ta cãi nhau”.

Nói xong ông ta vèn ra ven đường và tìm một viên đá to, khệ nệ khiêng ra đặt ở giữa sân. Ông bạn kia bắt đầu ngay, ông ta lớn tiếng:

“Viên đá đó của tôi mà mắc mớ gì ông lại đem ra giữa sân”. Ông kia cãi lại: “Viên đá này là của tôi. Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?”. Nghe nói thế, ông kia đáp:

“À phải rồi, viên đá đó ông tìm được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần có đá để làm gì”.

Nói xong, ông ta bỏ đi làm việc khác. Thế là ý định cãi nhau của hai người không được thành tựu như ý muốn.

Ngay từ thuở bập bẹ nói được, con người đã học câu “cái này của tôi” để thể hiện quyền làm chủ của mình. Quan sát các cuộc cãi nhau của trẻ con, chúng ta nghe thấy câu nói đó được lặp đi lặp lại nhiều nhất.

Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hoà vẫn xoay quanh câu xác quyết “cái này của tôi”.

Trẻ con tranh nhau hòn bi, trái banh. Người lớn giành nhau địa vi, lợi lộc. Quốc gia tranh nhau đất đai, hòn đảo, vùng ảnh hưởng, môi trường tiêu thụ.

Trẻ con dùng lời cãi vã nhau, dùng thoi đánh đấm nhau. Người lớn dùng bạo lực, thủ đoạn thanh toán nhau. Quốc gia dùng khí giới, bom đạn giết hại,tàn phá nhau.

Ngược lại bẩm tính thích tranh nhau chiếm hữu này, sứ điệp của Giáo Hội luôn vang lên hai tiếng: chia sẻ.

Ở Hoa Kỳ, mỗi gia đình công giáo được phân phát một hộp giấy, để trong suốt mùa Chay, mỗi phần tử trong gia đình bỏ vào đấy những đồng tiền tiết kiệm do bớt ăn uống, bớt chi tiền vào những việc giải trí. Cuối mùa Chay, những số tiền dành dụm đó được đóng góp vào quỹ dành cho việc tài trợ những chương trình cứu tế xã hội trong và ngoài nước.

Chương trình chia sẻ cũng được thực thi tại Đức mang tên Misereor. Chia sẻ theo hình thức này là cách ăn chay hai chiều: ăn uống đơn sơ rẻ tiền hơn để hãm mình ép xác và dùng số tiền dành dụm được do sự mua thức ăn rẻ tiền, để giúp đỡ anh chị em đang nghèo khổ.

9. LẠC HƯỚNG

Mỗi năm có đến hằng răm con cá voi bơi vào bờ biển và bị mắc cạn. Nếu được kéo ra biển, chúng lại tự ý bơi trở vào bờ nữa mà không ai hay biết lý do tại sao… Hiện tượng này đã xảy ra từ nhiều thế kỷ và bao nhiêu giả thuyết được đưa ra.

Mới đây, trong tạp chí New Scientist, một nữ bác sĩ thuộc trường đại học Cambridge bên Anh quốc đã nghiên cứu trên 3000 hồ sơ ở bảo tàng viện Anh quốc và đưa ra kết luận rằng: tất cả các giống vật sống ở đại dương như cá heo, cá voi đều tự ý làm cho mình mắc cạn trên kháp thế giới. Có thể nói đây là một một loại tự sát của thú vật.

Nữ bác sĩ nói trên cho rằng cá voi bơi vào bờ vì chúng đã sử dụng địa từ trường của trái đất như một thứ bản đồ. Bà giải thích rằng cá voi không sử dụng sự chỉ hướng rộng rãi trên mặt đất như ta sử dụng địa bàn, nhưng chúng chỉ dùng những sự khác biệt tương đối nhỏ trong từng vùng hoàn toàn địa phương. Chúng bơi vào bờ không phải vì chúng đi tìm bờ biển hay muốn tự sát, nhưng cũng giống như người đọc sai hải đồ, nhắm hướng này nhưng lại ra hướng khác.

Những chú cá voi mắc cạn hằng năm trong bờ chắc chắn không phải là những con thú đã quyết chì đi tìm cái chết. Bản năng sinh tồn,ước muốn sinh tồn có nơi con người cũng như súc vật. Chúng đi tìm sự sống nhưng đã lạc hướng.

cũng thế, không có người nào tự tử vì chính cái chết cả. Qua cái chết ấy, người ta vẫn còn ước muốn được giải thoát. Do đó,tìm giải thoát cũng là một ước muốn được sống.

Tất cả chúng ta ai cũng khao khát sự sống. Thế nhưng, lắm khi chúng ta lầm đường lạc lối. Cũng như người thuỷ thủ đọc sai hải bàn, cũng như người phi công được sai bản đồ, chúng ta đọc sai những bản chỉ dẫn đi tìm sự sống của chúng ta. Những ảo ảnh và pù phiếm của cuộc sống lôi kéo chúng ta đến những bóng mờ của chết chóc mà chúng ta không hay biết. Khi chợt tỉnh, thấy mình mắc cạn như những chú cá voi thì đã quá muộn. Chúa Giêsu chính là đường đi của chúng ta. Chí có Ngài mới dẫn đưa chúng ta đến sự sống đích thực.

10. TẤM GƯƠNG

Tại một ngôi làng nhỏ ở ven biển Ái Nhĩ Lan, có một cặp vợ chồng ngư phủ nghèo, nghèo đến độ trong nhà không có được một cái gương soi mặt.

Trong làng chỉ vỏn vẹn có một cái quán nhỏ cung cấp lương thực và những gì cần thiết cho việc đánh cá. Một ngày nọ, người chủ quán ngạc nhiên vô cùng khi bắt gặp người ngư phủ già cầm lấy một vật gì đó trong tay, vừa xoay xung quanh, vừa thổn thức. Rồi từ đó, người chủ quán nhận thấy người đánh cá trở lại quán của mình thường xuyên hơn và cũng lặp lại từng ấy động tác. Ráng theo rình rập để lắng nghe những gì người ngư phủ già than thở, người chủ quán mới thấy ông già đưa cái gương soi mặt và thều thào: “Ba ơi, ba ơi”.

thì ra, cả đời người ngư phủ già chưa bao giờ nhìn thấy mặt mình trong gương. Nhìn thấy mình trong gương lần đầu tiên, ông ta tưởng đó là cha của mình.

Người chủ quán quá cảm động, đã tặng cho ông già tấm gương. Lão hăm hở măng đi, và từ đó, cứ mỗi lần rảnh rỗi, lão đưa tấm gương ra, nhìn vào và nói chuyện với cha mình.

Tất cả chúng ta đều sống cho một tương mặt. Và gương mặt duy nhát mà chúng ta không bao giờ thấy đó là gương mặt của chính chúng ta. Chúng ta có thể hiểu biết tất cả, nhìn thấy tất cả trừ gương mặt của chúng ta. Và ngay cả trong một tấm gương, chúng ta chỉ nhìn thấy mình theo một hình ảnh đảo lộn. chúng ta chỉ có thể biết mình, chúng ta chỉ có thể khám phá được hính mình nhờ những ngời khác và nhờ chính hình ảnh mà họ có thể cho chúng ta thấy.

Vậy đâu là tấm tương đích thực để chúng ta có thể biết mình hoặc biết mình phải như thế nào?

Chúng ta đừng vội vã cười hai vợ chồng ngư phủ trong câu chuyện trên đây… Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể làm người, có lẽ họ là người có lý, bởi vì họ biết nhìn thấy tong gương một cái gì khác hơn chính mình. Nói như thánh Phaolô: “Phần chúng ta,chúng ta không che mặt, chúng ta phản chiến vinh quang của Chúa, như một tấm gương, vì chúng ta được thấy mình biến đổi nên giống hình ảnh ấy, mỗi lúc một rực rỡ hơn, bởi vì quyền phép Thánh Linh của Chúa”.

Mỗi người Kitô phải là tấm tương phản chiếu chính hình ảnh của Đức Kitô. Cuộc sống của họ phải là một phản ảnh được cuộc sống Đức Kitô.

11. ĐÁM CƯỚI VĨ ĐẠI NHẤT

Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Đại Đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.

Khi quyết định cưới một người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tó ý muốn thống nhất tất cả lạnh thổ đã được chinh phục từ Đông sang Tây. Ông cũng hy vong có được một một người con nối dõi với hai dòng máu Đông Tây để thống nhát hai phần đất của địa cầu.

Đám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng Alexandre đã cho tổ chức nhưng cuộc ranh tài thể thao: thế vận hội đã sược khai sinh từ đó. Chính đại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thương hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng, người được coi là đoạt nhiều giải nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá. Alexandre đại đế giải thích như sau: chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.

Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre đại đế với công chúa Roxanne: đó là hôn lễ của trời với đất, của Thiên Chúa với nhân loại. Đây là cuộc hôn lễ mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy diễn ra qua việc Con Thiên Chúa xuống thế mặc lấy xác phàm. Ngài đến không kèn không trống, không quân đội,không thế vận hội. Ngài không mang lại các cúp vàng. Ngài cũng không chỉ trao cành lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể chiến thắng trong cuộc sống của mình và ai cũng có thể nhận lãnh cành là vinh hiển ấy.

Ai trong chúng ta cũng có một phần thưởng vô giá, ai trong chúng ta cũng là người đoạt giải nhất và ai trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sông đời đời.

Với Chúa Giêsu là Đấng đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng ta, chúng ta tin chắc rằng chúng ta cũng sẽ chiến thắng.

12. RA ĐI LÀ CHẾT TRONG LÒNG MỘT ÍT

Phật giáo Trung Hoa rất nhớ ơn và hãnh diện vì có thiền sư Đường Tam Tạng. Ông là người đã có công vượt núi trèo non để đi Tây Trúc thỉnh kinh đem về phổ biến cho dân gian.

Truyện Tây Du Ký đã ghi lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tâm Tạng. Nhưng những gian nan thử thách xảy đến cho thiền sư họ Đường không phải chỉ là gai góc hiểm trở của đoạn đường dài, mà chính là những tật xấu mà ba người môn đệ thân tín nhất của thầy là hiện thân. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng, ba cái tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Đường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt chánh quả. Ba nết xấu đó là:Lòng kiêu căng, lòng ham vật dục và tình lười biếng

Ra đi là chết trong lòng một ít… Thiển sư họ Đường có lẽ đã phải chiến đấu và hoa mòn vì những thâm sân si trong lòng thầy.

Tin Mừng cũng nhắc đến một cuộc ra đi: đó là cuộc ra đi của Chúa Giêsu. Ngài rời bỏ quê hương để đi Galilêa. Galilêa chỉ cách Nagiarét vài chục cây số… Nhưng với Chúa Giêsu cuộc trẩy đi này bao hàm một cuộc lột xác và từ bỏ trọn vẹn. Ngài rời bỏ tất cả để vào sa mạc.

Ra đi có nghĩa là ra khỏi chính mình và không quay nhìn lại phía sau. Ra đi tức là chấp nhận chết đi trong lòng một ít.

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, mặc dù chưa một lần ra khỏi bốn bức tưởng của tu viện,đã được Giáo Hội chọn làm quan thầy các xứ truyền giao.

Một úc nào đó, có lẽ chúng ta cũng khao khát được mang Tin Mừng của Chúa đến một nơi xa lạ… Ước mơ ấy có thể làm cho chúng ta quên đi thực tại của không biết bao nhiêu người thiếu thốn lương thực cho thể xác cũng như tinh thần.

Ra đi loan báo Tin Mừng, trước tiên chính là ra khỏi con người của chúng ta. Ra khỏi con người thiển cận, ích kỷ của chúng ta để mặc lấy một cái nhìn nhạy cảm hơn trước sự hiện diện của than nhân.

13. EMMAUS

Nói đến những người không nhà không cửa, ngời ta thường nhắc đến cha Henri Groués quen được gọi tắt là cha Pierre, người đã sáng lập cộng đồng Emmaus nhằm giúp những người bần cùng tự tay xây dựng cuộc sống của họ.

Phong trào cộng đồng Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố Paris vào hồi đệ nhị thế chiến. Những người khách đầu tiên của tổ ấm này là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa được phóng thích.

Câu nói đầu tiên của cha Pierre với những người mới đặt chân đến cộng đồng là: “Bạn côn được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người khác…”. Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn trở thành hữu ích cho người khác. Đó là niềm tin mà cha Pierre luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng.

Cha Pierre đặt tên Emmaus cho cộng đồng của Ngài là để nhớ lại câu chuyện của hai người môn đệ Chúa Giêsu trong buổi chiều phục sinh. cũng như hai người môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những người bạn đầu tiên của Ngài đã tìm gặp được hứng khởi,niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống.

Tạo lại niềm hy vọng vào cuộc sống đó là khẩu lệnh của cha Pierre, và xây dựng lại niềm hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát. Chính vì thế mà cộng đồng Emmaus chủ trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải, các vật dũng cũ kỹ để chết biến và bán lại, như một sản phẩm do chính tay mình làm nên.

Hiện nay phong trào đã có mặt tại 50 quốc gia trên thế giới với khoảng 290 cộng đồng.Tất cả mọi người trong cộng đồng đều sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và mất mát trong cuộc sống.

Tin Mừng của thánh Luca thuật lại rằng, buổi chiều hôm đó, có hai người môn đệ của Chúa Giêsu lên đường đi Emmaus, trở về làng cũ của họ.

Cái chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mộng công hầu khanh tướng, hết giấc mơ của một nước Israel thịnh vượng, hết mọi hy vọng. Trở về làng cũ tức là trở về với thất vọng ê chề. Nhưng cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với họ, cái chết mang một ý nghĩa mới, mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc, thất bại trở thành khởi điểm của thành công,buồn phiền đã biến thành vui mừng hân hoan… Ánh sáng phục sinh của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống một ý nghĩa mới. Tin tưởng lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.

Ở bất cứ nơi đâu và ở bất cứ thời đại nào, sau một lần đổ nát, ngươi ta thường hát lên điệp khúc: Hãy xây dựng từ từ đổ nát!

Đó là niềm tin mà hơn bất cứ lúc nào chúng ta cần phải bám lấy… Bạn đang sầu khổ vì những mất mát ê chề trong cuộc sống ư? Bạn đang quằn quại trong đau khổ của thể xác và tinh thần ư? Bạn đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư?

Chúa Giêsu của thành Emmaus đang nói với bạn: đừng thất vọng, Ngài đang đồng hành với bạn, và với ngài, bạn có thẻ xây dựng được một cuộc sống tốt sẹp hơn.

14. CHIẾC TÀU VĨ ĐẠI

10 giờ đêm ngày 14 tháng 4 năm 1912, chiếc tàu du lịch mang tên Titanic của Anh quốc đã đâm phải một tảng băng giữa khơi Đại Tây Dương. Bốn giờ đồng hồ sau, cả chiếc tàu, thuỷ thủ đoàn và nhiều hành khách đã bị chôn vùi giữa lòng đại dương…

cuộc đắm tàu thảm thương ấy đã là nguồn cảm hứng cho không biết bao nhiêu tác phẩm văn chương. Những người sống sót đã thuật lại sự can đảm phi thường của viên thuyền trưởng, các sĩ quan và thuỷ thủ đoàn. Họ kể lại rằng nhiều người vợ đã khước từ sự cứu vớt để ở lại và cùng chết với chồng.

Giữa bao nhiêu gương hy sinh vĩ đại ấy, những người sống sót còn kể lại một câu chuyện mà sem ra người ta chỉ muốn biết vì óc tò mò hơn là vì thán phục. Đó là câu chuyện của một người đàn bà sau khi đã được đưa lên boong tàu để chuẩn bị được cứu vớt, đã xin được trở lại phòng ngủ lần cuối cùng để thu nhặt một ít đồ vật quí giá. người ta chỉ cho bà đúng ba phút để làm công việc đó.

Người đàn bà vội vã chạy xuống phòng ngủ của mình. Dọc theo hành lang, bà thấy ngổn ngang không biết bao nhiêu là nữ trang và đồ vật quí giá. Khi đến phòng ngủ của bà, người đàn bà đưa mắt nhìn các thứ nữ trang và báu vật, nhưng cuối cùng, bà chỉ nhặt đúng ba quả cam và chạy lên boong tàu.

Trước đó vài tiếng đồng hồ, giữa các đồ vật trong phòng, có lẽ người đàn bà không bao giờ chú ý đến ba qủa cam. Nhưng trong giây phút nguy ngập nhất của cuộc sống, thì giá trị của sự vật bỗng bị đảo lộn: ba quả cam đả trở thành quí giá hơn cả tấn vàng và kim cương, hột xoàn.

Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để đánh giá sự vật và các biến cố trong tương quan với sự sống vĩnh cửu. Chúng ta được mời gọi để nhìn vào sự vật bằng chính ánh sáng vĩnh cửu. Đó là cách thế duy nhất để chúng ta tìm ra được ý nghĩa và giá trị đích thực của sự vật.

Thánh Matthêô và Luca có ghi lại một mẩu chuyện nho nhỏ cho thấy cái nhìn của chính Thiên Chúa: Ngày nọ, Chúa Giêsu vào Đền thờ, ngài quan sát những người đến trước hòm tiền để bố thí. Đa số đều là những người giàu có. Chợt có một quả phụ nghè nàn cũng tiến đến bên hòm tiền. Bả chỉ bỏ vỏn vẹn có vài xu nhỏ… Vậy mà chúa Giêsu đã tuyên bố rằng bà ta là người dâng cúng nhiều hơn cả, bởi vì đa số đều cho của dư thừa, còn người đàn bà này cho chính những gì mình cần để nuôi sống.

Cái nhìn của Thiên Chúa không bỏ sót bất cứ một hành động nhỏ nhặt nào của con người. và trong cái nhìn ấy, đôi khi chính những hành động nhỏ bé cú cuộc sống ngày qua ngày, chính những nghĩa cử vô danh lại bừng sáng lên và mang một giá trị đặc biệt.

Cái nhìn của Thiên Chúa phải chăng không là một nguồn an ủi lớn lao cho chúng ta là những người đang âm thầm sống đức tin giữa không biết bao nhiêu thử thách và giới hạn? Ước gì cái nhìn ấy giúp chúng ta kiên trì trong những công việc vô danh mà chúng ta phải thì hành mỗi ngày và củng cố chúng ta trong niềm tin vững vào những thực tại vĩnh cửu.

15. HOÀNG TỬ TÍ HON

Trong một truyện ngắn mang tựa đề “Hoàng từ tí hon”, văn hào Pháp Saint Exupery có kể lại chuyện như sau: Máy bay trục trặc, ông đã phải đáp xuống giữa sa mạc Sahara. Sáng hôm sau, khi thức dậy, ông thấy có một cậu bé lẩn quẩn bên cạnh mình. Cậu bé cứ nài nỉ ông vẽ cho cậu một con cừu.

Viên phi công đành phải chiều theo ý của cậu bé. Nhưng con cừu đầu tiên ông vẽ được lại là một con cừu già nua.Không vừa ý, ông lại tiếp tục vẽ. Nhưng kết quả chỉ là một con cừu bệnh hoạn. Không biết cách nào làm vừa lòng cậu bé, ông mới vẽ một cái hộp với nhiều lỗ xung quanh và nói với cậu: “Con cừu đang ở trong cái hộp này bé ạ”.

Viên phi công ngạc nhiên vô cùng, bởi vì ông vừa giải thích thì cậu bé đã reo lên: “Đây chính là điều mà cháu đang chờ đợi… Xem kìa, con cừu đang ngủ”. Nhờ một cái hộp như thế, cậu bé tha hồ tưởng tượng theo ý thích của nó. Nó còn tin rằng cái hộp này quả thực là hữu ích vì con cứu mà nó chưa bao giờ thấy vẫn có nơi trú ngụ.

Trong cuộc sống của chúng ta, có lẽ cũng có nhiều điều tương tự xảy ra như thế. ngay trong Giáo Hội của chúng ta, cũng xảy ra nhiều điều như thế.

Có lẽ lắm khi chúng ta cũng xin Chúa Giêsu hãy vẽ cho chúng ta một Giáo Hội, và Ngài đã chiều theo ý của chúng ta. Ngài đã vẽ cho chúng ta một Giáo Hội. ngài đã để lại cho chúng ta nhiều yếu tố về Giáo Hội của Ngài. Giáo Hội ấy chẳng khác nào một bức tranh mà các màu sắc được phân tán rải rác khắp nơi… Nơi đây, Ngài bảo rằng Giáo Hội của Ngài là ánh sáng muôn dân. Nơi khác nữa, Ngài lại loan báo rằng Giáo Hội đó như một cây vĩ đại có thể dùng làm chỗ cho chim trời đến đậu.

Dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng biết rằng Giáo Hội không phải là Đức giáo Hoàng, Giáo Hội không phải là toà thánh Vatican. Giáo Hội lại càng không phải là một vị giám mục hay các linh mục… Giáo Hội của Đức Kitô là một thực tại gồm những con người, nhưng lại vượt lên trên những con người.  Bổn phận của mỗi người Kitô chính là vẽ lại khuôn mặt của Giáo hội. Giáo Hội đó có thực sự là Giáo Hội của Đức Kitô hay không, Giáo Hội đó có thực sự là Giáo Hội của người nghèo hay khong là tuỳ thuộc ở những nét điểm tô mà chúng ta dành cho Giáo hội.

16. KHÔNG QUYỀN LỰC NÀO…!

“Đức tin không thể nào bị bóp nghẹt bởi bất cứ quyền lực nào!”. Đó là lời tuyên bố của phó tổng thống Hoa kỳ George Bush trong buổi tiển biệt Đức Thánh Cha gioan Phaolô II ngày 19/19/1987 nhân dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ giã Đức thánh Cha, phó tổng thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc tại Liên Xô sau hơn 60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.

Ông George Bush kể lại cho Đức thánh Cha như sau: “Trong nghi lễ an táng tổng bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng không có đức tin và Lời Chúa, tôi theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để nói lời từ biệt… Kìa, có Chúa làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một chết độ độc tại, bà Breznev chăm chú nhìn người chồng,rồi cuối nhẹ xuống và làm dấu thánh giá trên ngực của người chết…”.

Ông Bush cũng kể lại rằng ộng đã gặp Mao Trạch Đông trước khi ông này qua đời. Chủ tịch họ Mao đã tâm sự với ông như sau: “Tôi sắp sửa về trời, tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”.

Đưa ra hia sự kiện trên đây, ông Bush kết luận: Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể quét sạch những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người…

Lời phát biểu trên đây của ông George Bush có lẽ p[hải làm cho chúng ta phấn khởi. Thiên cúa vẫn luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta. Chính những nơi mà chúng ta tưởng Ngài đa bị gạt bỏ hoàn toàn, chính những lúc mà chúng ta tưởng như Ngài công có mặt, ngài vẫn tiếp tục hoạt động. Bởi vì Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu thương con người.

Chúng ta tiếp nhận sự sống từ chính Chúa, như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không thể có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Chúa thì không thể có sự sống… Thiên Chúa thông ban sự sống cho chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. ngài yêu thương tất cả mọi người, ngay cả những kẻ chối bỏ hoặc thù ghét ngài.

17. SỜ ĐƯỢC ĐỨC KITÔ

Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã có lần kể lại như sau:

Một hôm, có một cô thiếu nữ đã tìm đến Ấn độ để xin gia nhập dòng Thừa sai Bác ái của chúng tôi.

Chúng tôi có một qui luật, theo đó, ngày đầu tiên khi mới đến, tất cả những ai muốn sống với chúng tôi, cũng đều được mời sang nhà hấp hối, tức là nhà đón tiếp những người sắp chết. Do đó, tôi đã nói với thiếu nữ đó như sau:

“Con đã nhìn thấy vị linh mục dâng thánh lễ. Con đã thấy ngài sờ đến Thánh Thể với chăm chú và yêu thưng là dường nào. Con cũng hãy đi và làm như thế tại nhà hấp hối, bởi vì con sẽ tìm thấy Chúa Giêsu trong thân thể của những người anh em khốn khổ đó”.

Người thiếu nữ đã ra đi…Một thời gian sau, cô trờ lại với một nụ cười rạng rỡ mà có lẽ tôi chưa bao giờ trông thấy. cô vui vẻ thốt lên với tôi: “Thưa mẹ, con đã sờ được thân thể của Chúa Giêsu trong suốt ba tiếng đồng đồ”. tôi mới hỏi lại sự thể đã diễn ra như thế nào, cộ ta đáp như sau: “Con vừa đến nhà hấp hối thì thấy người ta mang đến một người vừa té xuống một hố sâu. Mình mẩy của người đó đầy những vết thương và bùn nhơ hôi thối… Con đã đến và con đã tắm rửa cho anh ta. Con biết rằng làm như thế là chạm đến thân thể của Đức Kitô”.

Có lẽ chúng t nên tự vấn: chúng ta có tin rằng, tất cả mọi cuộc gặp gỡ với tha nhân đâu là một cuộc gặp gỡ với Chúa không? Đức tin của chúng ta có được diễn đạt qua cuộc sống hằng ngày không? thánh lễ mà chúng ta tham dự mỗi ngày có được tiếp tục trong cuộc sống hằng ngày không?

Thánh thể là trung tâm của đời sống Kitô, bởi vì Kitô giáo thiết yếu là một sự sống. Người Kitô đến bàn tiệc Thánh Thể để tiếp nhận sự sống và năng lực cho mọi hoạt động của mình.

Là trung tâm của cuộc sống, Thánh ‘thể chỉ được cử hành với đầu đủ ý nghĩa nếu việc cử hành đó gắn liền với cuộc sống. Cắt đứt liên lạc với cuộc ống, tất cả mọi cử hành chỉ còn là những động tác lãng mạn, viễn vông.

Do đó, người Kitô sẽ mang đến bàn thờ gất cả cuộc sống của mình và múc lấy từ bàn thờ sức sống mới cho cuộc sống của họ. Hay nói cách khác, Thánh Thể là một thu gọn của cuộc sống hằng ngày và cuộc sống hằng ngày là một tiếp nối của Thánh Thể. Đức Kitô không những chỉ muốn chún ta gặp gỡ hau trong Thánh Thể và gặp gỡ Ngài trong lúc cử hành, Ngài còn muốn chúng ta gặp gỡ với Ngài qua tất cả mọi sinh hoạt và gặp gỡ khác trong cuộc sống.

Bàn thờ trong giáo đường và bàn thờ của cuộc sống phải là một. Đức tin của chúng ta không chỉ thể hiện trong nhà thờ, nhưng còn phải được tuyên xưng giữa phố chợ. Từng giây từng phút của chúng ta phải trở thành một cuộc gặp gỡ với Chúa. Từng cuộc gặp gỡ với tha nhân, nhất là những người hèn kém nhát, phải là một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.

18. ĐÔI TAY CẦU NGUYỆN

Albrecht Durer là một hoạ sĩ và điêu khắc gia hổi tiếng của nước Đức vào thế kỷ thứ 16. Một trong những tác phẩm nhổi tiếng nhất của ông đó là bức tranh “Đôi tay cầu nguyện”.

Sự tích của hoạ phẩm này như sau: Thuở hàn vi, Durer kết nghĩa với một người bạn chí thân. Cả hai đã thề thốt là sẽ giúp nhau trở thành hoạ sĩ. Để thực hiện ước nguyện đó, người bạn của Durer đã chấp nhận làm thuê làm mướn đủ cách để kiếm tiền cho Durer ăn học thành tài. Theo thoả thuận,sau khi đã thành công, Durer cũng sẽ dùng tiền bạc của mình để giúp cho người bạn ăn học cho đến khi thành đạt.

Thế nhưng khi Durer đã thành tài,danh tiếng của anh bắt đầu lên,thì đôi tay của người bạn cũng đã ra chai cứng vì lam lũ vất vả, khiến anh không thể nào cầm cọ để học vẽ nữa.

Một ngày nọ, tình cớ bắt gặp đôi tay của người bạn đang chắp lại trong tư thế cầu nguyện, Durer nghĩ thầm: “Ta sẽ khong bao giờ phục hồi lại được năng khiếu cho đôi bàn tay này nữ, nhưng ít ra ta có thể chứng tỏ tình yêu là lòng biết ơn của ta bằng cách hoạ lại đôi bàn tay đang cầu nguyện này. Ta muốn ca tụng đôi bàn tay thanh cao và tấm lòng quảng đại vị tha của một người bạn”.

Thế là kể từ hôm đó, Durer đã để hết tâm trí vào việc thực hiện bức tranh đó. Đó không phải chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, nhưng là tất cả tình yêu và lòng biết ơn mà ông muốn nói lên với một người bạn. Bức tranh đã trở thành bất hủ,nhưng càng bất hủ hơn nữa đó là tấm lòng vằng của người bạn và tâm tình tri ân của nhà hoạ sĩ.

Phúc Âm kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa Chúa Giêsu và một người đàn bà mà mọi người đang nhìn bằng một con mắt khinh bỉ,bởi vì bà ta bị xếp ào loại người tội lỗi… Bấp chấp mọi dòm ngó và xì xào, người đàn bà đã tiến đến bên Chúa Giêsu, đập vỡ một bình dầu thơm, đổ trên chân Chúa Giêsu và dùng tóc lau chân ngài.

Nhiều người xì xào,tỏ vẻ khó chịu. Chúa Giêsu đã lên tiếng biện minh cho người đàn bà và Ngài đã tiên đoán: nơi nào Tin Mừng được loan báo thì nơi đó cử chỉ của người đàn bà được nhắc tới.

Qua lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: tất cả mọi nghĩa cử, dù là một hành vi nhỏ bé đến đâu và làm cho một người nhỏ mọn đến đâu,cũng được ghi nhớ muôn đời.

Tiền của có thể qua đi,danh vọng có thể mai một, nhưng những việc làm bác ái luôn có giá trị vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã nói: trong ba nhân đức, tin cậy mến, chỉ có đức mến là tồn tại đến muôn đời.

Cuộc đời của mỗi người Kitô chúng ta cụng giống như một bức tranh cần được hoàn thành. Mỗi một nghĩa cử chúng ta làm cho người khác là một đường nét chúng ta thêm vào cho bức tranh. Khuôn mặt của chúng ta có thể khô cằn, hoặc rướm máu vì những cày xéo của những thử thách, khó khăn, đôi tay của chúng ta có thể khô cứng vì những quảng đại, quên mình. Tuy nhiên, những đường nét bác ái sẽ làm cho khuôn mặt ấy trở thành bất tử…

19. TRÒ CHƠI HOÀ BÌNH

Một ngày kia, trên con đường đi bách bộ ngang qua một sân chơi, ông Marschak, một nhà văn Liên Xô, dừng lại quan sát các trẻ em vừa lên 6, lên 7 đang chơi đùa với nhau trên sân cỏ.

Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi: “Này cảm em, các em đang chơi trò gì đó?”. Bọn trẻ nhôn nhao trả lời: “Các em chơi trò đánh nhau”.

Nghe thế, Ông Marschak hơi cau mày. Rồi ra dấu gọi các em đến gần, ông ôn tồn giải thích: “Tại sao các em lại chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các em biết chứ, sánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đẽ đâu. Các em hãy chơi trò chơi hoà bình xem nào”.

Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:“Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hoà bình một lần xem sao”.Rồi cả bọn kéo nhau chạy ra sân, chụm đầu nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn Marschak tỏ vẻ hài lòng, mỉm cười tiếp tục cất bước. Nhưng không kịp bao lâu, ông nghe có tiếng chân chạy theo. VÀ chưa kịp quay lại, ông nghe giọng một trẻ em hỏi: “Ông ơi, trò chơi hoà bình làm sao? Chúng cháu không biết?”.

Vâng, làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơ hoà bình khi chúng chỉ thấy người lớn “chơi trò chiến tranh”. Khi chúng vẫn thấy các anh lớn lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự trong lúc đất nước không có một bóng quân thù.

Làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hoà bình, khi mỗi ngày chúng thấy trên truyền hình, trên các mặt báo hình ảnh của những người lớn bắn giết nhau, thủ tiêu nhau, ám sát nhau.

Làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hoà bình, khi trong chính gia đình chúng thấy anh chị, và thậm chí đôi khi cả cha mẹ chúng lớn tiếng cãi vả, mắng chửi nhau. Có khi họ cùng cả tay chân để thay lời nói. Trong thực tế, bầu khí người lớn tạo ra để các trẻ em lớn lên không phải là bầu khí hoà bình.

Đến bao giờ thế giới của người lớn mới hiểu và thực tâm tìm phương thế giải quyết sự mâu thuẫn: là hằng ngày thế giới của người lớn bỏ ra cả tỷ mỹ kim cho việc nghiên cứu và trang bị về vũ khí.

trong khi đó trên thế giới có 800 triệu người sống dưới mức tối thiểu cần thiết cho con ngừi, nghĩa là họ đang bị đe doạ chết đói. Có 600 triệu người trên thế giới đang bị mù chữ. Chỉ trong 4 trong số 10 trẻ em được cắp sách đến trường tiểu học trong hơn 3 năm. Và cứ 10 đứa trẻ sinh ra trong cảnh cơ hàn thì 2 trẻ bị chết trong năm đầu tiên.

Vâng, thế giới người lớn phải bắt đầu loại bỏ chiến tranh và xây dựng hoà bình, nếu họ muốn trẻ con cũng noi gương họ chơi trò chơi ấy.

20. HÃY THẮP LÊN MỘT QUE DIÊM

Một bữa tối no, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại vận động trường Los Angeles bên Hoa Kỳ. Đang diên thuyết bỗng ông dừng lại và nói: “Bây giờ kin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.

Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: Đã thấy!”. Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên những tiếng kêu: “Đã thấy!”.

Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại như vậy”.

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả nhữn gai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!”. Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.

Ông John Keller kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối,sự dữ va oán thù bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.

Hoà bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng chiến tranh. Hoà bình không chỉ là cuộc sống chung im tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, đàn áp và bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.

Ngoài ra, hoà bình không chỉ được xây dựng trong những văn phòng của các nhà lãnh đạo. Hoà bình không chỉ được xây dựng qua những cuộc họp, qua những buổi thảo luận, mặc cả của các nhà chính trị. Mọi người chúng ta phải trở thành những người thợ xây dựng hoà bình. Bởi lẽ nguồn gốc của hoà bình xuất phát từ phẩm chất của các mối liên lạc giữa người với người.

Người biết yêu mến là ngời thợ xây dựng hoà bình. Kẻ biết giúp đỡ là kẻ xây đắp hoà bình. Những ai biết tha thứ, nhữn gai biết phục vụ tha nhân, những ai biết luôn khước từ hận thù, bạo lực là những người thợ xây dựng hoà bình. Những ai biết chia sớt của cải mình cho người túng thiếu hơn, những ai có lòng nhân từ, có lòng khoan dung và thông cảm đều là những kẻ giúp cho hoà bình nẩy nở giữa loài người.

Tóm lại: cách thức tốt nhất để xây dựng hoà bình là tăng thêm cho tật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm đối với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua đuổi bóng gối của những đau khổ và sự dữ.

21. MÓN QUÀ SINH NHẬT

Một bác nông phu tên Donningos sinh sống bên Brazil bằng nghề trồng bắp. Một buổi sáng nọ, trên con đường đi ra đồng làm việc, ông được đứa con trai mừng sinh nhật thứ 10 chạy theo căn dặn: “Đừng quên mang về 2 con chim nhỏ làm quà sinh nhật cho con cha nhé!”. Người cha vốn rất vui tánh và thương con nở nụ cười tươi, gật gù dưới chiếc nón rộng vành cho con yên dạ.

Sau một ngày lao động mệt nhọc trên cánh đồng, thấy mặt trời chưa lặn hẳn, bác Donningos vội đi qua cánh rừng gần đấy gom một mớ củi. Đang lúc bó củi, bỗng bác nhớ lại lời hứa mang đôi chim về làm quà sinh nhật thứ 10 cho con. Bác bỏ vội bó củi bên đường, tiến sâu vào rừng, trèo nhanh lên gành đá của một ngọn đồi, nơi chim thường làm tổ. Tìm được một tổ chim có tiếng chim con kêu, bác cẩn thận luồn tay vào,, nhưng vừa đụng những chim con, bác vội rụt tay về, vì nghe đau nhói như bị kim đâu. Nìn kỹ đó là vết thương hai lỗ có máu rỉ ra. Chưa định thần thì một con rán đầu có hình chữ thập trườn ra ngoài,vươn đôi mắt ghê rợn chực tiếp tục tấn cong. đó là con rắn nổi tiếng được dân địa phương gọi là “uturu des sétao”. Nổi tiếng vì nọ nó vô phương cứu chữa.

Bác nông phu vội rút chiếc dao cán dài ra khỏi thắt lưng, nhắm đầu rán chặt nhanh. May cho bác, nhát dao giết chết được con rắn,nhưng bàn tay bị rắn cắn cũng vụt sưng lên. Không chần chừ, bác kê tay lên gốc cây và mạnh tay chặt luôn 2 nhát, cắt lìa bàn tay. Buộc xong vết thương bằng chiếc áo và dùng răng phụ với tay còn lại siết chặt, bác dùng sức tàn chạy nhanh về nhà, nhưng vẫn công quên cầm 2 chú chim làm quà sinh nhật ho con.

Bạn có tin câu chuyên có thực này không? Nếu bạn không tin thì làm sao bạn tin được một sự thật khác còn to lớn hơn: thiên Chúa chúng ta, không những cho chúng ta bàn tay của Người,nhưng đã trao ban cho chúng ta trọn Con một yêu dấu của Người.

22. MÓN QUÀ CỦA CON CÁO

Một câu chuyện giả tưởng thuật lại như sau:

Khi Chúa giáng sinh, các thú vật đều tới mừng Chúa. Mỗi con đều dâng Chúa chút quà: chị bò cái dâng sữa.Cậu khỉ biếu Chúa mấy trái nho.

chú sóc nêu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa.

Chúa Hài Đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc các thú vật quây quần bên Chúa thì chàng cáo xuất hiện. Các thú vật đều ghét cáo, vì hắn ta gian manh quỉ quyệt… Chúng chặn không cho cáo đến gần Chúa và tự hỏi: Không biết cáo định âm mưu gì.

Cáo nói: tôi đến dâng lễ vật cho Chúa. Nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật nào. Chúa ra hiệu cho cáo vào. Quì bên Chúa Hài đồng chằng cáo thì thầm dâng lên Chúa lòng quỷ quyệt của mình.

Mọi thú vật đều bỡ ngỡ: Dâng gì kỳ cục vậy! Trái lại cáo ta vui cười hớn hở,còn Chúa đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành. Xưa nay cáo sung sướng nhờ sự quỷ quyệt của mình, bây giờ dâng cho Chúa rồi, nó sẽ phải kiếm ăn cực nhọc với tấm lòng lương thiện. Chàng cáo đã dâng nhiều hơn hết mọi con vật.

Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” trong Tin Mừng: Một khi đã phạm tội, bà bị những người chung quanh kết án có thể gọi là “chung thân”. Hình như bà bị xã hội khắc vào má 2 chữ “ngoại tình” không thể nào tẩy xoá được. Giống như chú cáo trong câu chuyện trên: đã gian manh gủi quyệt thì mọi thú đều không thể tưởng tượng cáo có thể thay đổi.

Nhưng với sự xuất hiện và hoạt động của Chúa Giêsu, mọi đổi thay đều có thể xảy ra. Con cáo có thể bỏ tán mánh mum xảo trá để làm ăn lương thiện. Qua bao thế hệ, câu nói của Chúa Giêsu:“tôi cũng thế, tôi không kết tội chị. Vậy chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa” đã giúp đổi đen thành trắng nhiều cuộc đời.

Chúng ta hãy tập đừng vội xét đoán và nhất là đừng bao giờ kết án ai. Trái lại hãy cho nhau những cơ hội mới để mọi người có thể canh tân cuộc sống.

tiếp đến, hãy tập tận tình giúp đỡ những người đang gặp khó khăn, những kẻ đang vấp ngã: Hãy giơ cánh ta thân thiện kéo họ ra khỏi những vũng bùn nhơ, thay vì đi nói xấu hay xét đoán và kết án họ.

23. BỮA ĂN THIÊN ĐÀNG VÀ HOẢ NGỤC

Một ký giả kia được phép xuống địa ngục và lên thiên đàng để làm một bản phóng sự về đời sống dủa nhân dân tại đó.

Sau một cuộc hành trình gay go, ký giả trên lọt được vào địa ngục đúng vào giờ ăn. Nhìn vào bàn ăn, anh ta không hỏi lấy làm lạ khi thấy chưng bày toàn những sơn hào hải vị đang bốc khói hương ngào ngạt làm anh ta không khỏi nuốt nước bọt.

Nhưng lúc các kiều dân địa ngục tiến vào phòng ăn, chàng ta lại càng ngạc nhiên hơn khi thấy họ ốm o gầy mòn, chỉ còn da bọc xương, vài người đi không muốn nổi. Sự kinh ngạc tan biến khi chàng phóng viên chứng kiến cảnh họ dùng bữa. Vì muỗng nĩa rất dài buộc dình vào đôi tay không cho phép họ đưa thức ăn vào miệng, nên dù họ có cố gắng thế nào đi nữa, thức ăn chỉ đổ tháo ra đầy bàn hay rơi tung tó xuống mặt đất. Tệ hại hơn là cảnh họ tranh giành nhau: vài người dùng muổng nĩa thể thay vì đưa thức ăn vào miệng, lại biến chúng thành những khí giới đập đánh nhau. Thật là một bãi chiến trường. Khi chuông báo giờ ăn đã mẵn, họ buồn phiền rời phong ăn, dạ dẩy vẫn trống rỗng.  quá sợ hãi, chàng ký giả lập tức từ giã địa ngục để tiếp tục lên phóng sự trên thiên đàng. Đến nơi cũng đúng vào giờ cơm. Bàn ăn cũng chưng bày những thức ăn ngon miệng. Quan sát nhân dân, chàng ta thấy ai nấy sều phương phí, khoẻ mạnh, tuy đôi tay họ cũng được gắn chặt những muỗng nĩa rất dài. Có khác là thay vì họ cố găng đưa thức ăn vào miệng mình, họ lại dùng muỗn nĩa để đút thức ăn cho nhau. Phòng ăn vang lên nhữn giọng nói cười vui, thoả mãn.

Kế thúc bài phóng sự tường trình về những điều mắt thấy tai nghe, chàng ký giả viết: Ích kỷ và vị tha là hai điểm khác biệt giữa địa ngục và thiên đàng.

Kết thúc thời gian sáng thế, Thiên Chúa phán với hai ông bà nguyên tổ: “Hãy sinh sôi nảy nở và hãy nên đầy dẫy trên đất. Hãy làm bá chủ nó. Hãy trị trên cá biển và chim trời và mọi loài sinh vật nhung nhúc trên đất. Này Ta ban cho các người mọi thứ cỏ lá sinh hạt giống có trên mặt đất, và mọi thứ cây có quả sinh hạt giống, chúng se làm thức ăn cho các ngươi”.

Với công trình sáng tạo và lời chúc húc trên, Thiên Chúa muốn biến mặt đần thàn vườn địa đàng, nhưng con người đã chia mặt đất thành đông,tây, nam, bắc, thành những nước thống trị và những nước bị đô hộ, thành những quốc gia giàu và những nước nghèo. Đó là chưa kể con người đã và đang biến vườn địa đàng thành địa ngục qua bao nhiêu cuộc chiến tranh lớn nhỏ mà xét cho cùng cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi, tranh nhau miếng ăn, manh áo. Thật vậy, ích kỷ và vị tha là hai điểm khác biệt giữa địa ngục và thiên đàng.

24. HẠT TÁO

Tại một xứ Hồi giáo nọ, có một người đàn ông bị vua truyền lệnh tro cổ vì đã ăn cáp thức ăn của một người khác. Như thường lệ, trước khi bị treo cổ, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin với nhà vua như sau: “Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nẩy mầm, thành cây vào có trái ăn ngay tức khắc. Đây là một bí quyền mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là bí quyết này không được truyền lại cho hậu thế”.

Nhà vua truyền lệnh cho chuẩn bị mọi sự sẵn sàng để sáng hôm sau người tử gội sẽ biểu diễn cách trồn táo. Đúng giờ hẹn, trước mặt nhà vua và các quan văn võ trong triều đình, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói: “Chỉ có người nào chưa hề ăn cắp hoặc lấy của người khác, người đó mới có thể trồng được hạt giống này. Vì đã từng ăn trộm nên tôi không thể trồng được hạt giống này”.

Nhà vua tin người tử tội, nên mới quay sang nhìn vị tể tướng, có ý nhờ ông ta làm công tác ấy. Nhưng sau một hồi do dự, vị tể tướng mới thưa:”Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác… Thần cảm thấy mình không đủ điều kiện để trồng hạt táo này”. Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt, ông nghĩ bụng: may ra quan thủ kho trong triều đình là người nổi tiếng trong sạch chó thể hội đủ điều kiện. Nhưng cũng giống như vị tể tướng, quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố trước mặt mọi người rằng, ông cũng đã có một lần gian lận trong chuyện tiền bạc. Không còn tìm được người nào có thể thực hiện được bí quyết trồng cây ấy, nhà vua định câm hạt giống đển cho vào lỗ đã đào sẵn. Nhưng ông cũng chợt nhớ rằng lúc còn niên thiếu, ông cũng đã có lần đánh cắp một báu vật của vua cha…

Lúc bấy giờ, người tử tội chỉ vì ăn cáp thức ăn, mới chua xót thốt lên: “Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng. Các ngài không hề thiếu thốt điều gì. Vậy mà các ngài cũng không thể trồng được hạt giống này, chỉ vì các ngài cũng đã hơn một lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác để ăn cho đỡ đói qua ngày, thì lại bị các ngài nghị án trẻ cổ…”. Nhà vua và cả triều thần nghe như xốn xáo trong lương tâm. Ông ra lệnh phóng thích cho người ăn trộm.

Lời cầu chúc “bình an” của Đức Kitô phục sinh là một thứ hạt táo được gieo vào tâm hồn chúng ta. Hạt giống bình an đó chỉ có thể nẩy mầm thành cây và mang lại hoa trái là nếu mỗi người ai cũng dọn sẵn đất đai cho nó. Đất đai thuận tiện để cho hạt giống của bình an ấy được nẩy mầm, chính là lòng sám hối thực sự. Sám hối nghĩa là biết chấp nhận chính bản thân và sẵn sàng cảm thông, tha thứ cho người khác. Có nhận ra những yếu đuối bát toàn của mình, con người mới dễ dàng cảm thông và tha thứ cho người. Và có cư xử như thế, chúng ta mới thấy được hạt giống của bình an nẩy mầm trong tâm hồn chúng ta và mang lại hoa trái cho người xung quanh…

25. SƯ TỬ CÓ ĐÔI CÁNH

Khách du lịch đến thưởng ngoạn Venezia, một thành phố mơ mộng nằm trên sông nước và được làm tăng thêm vẻ đẹp bằng những công trình kiến trúc độc đáo cũng như bằng những tác phẩm nghệ thuật thời danh nằm ở mạn đông bắc Italia, không thể bỏ qua công trường Marcô, công trường mang tên vị thánh bổn mạng của thành phố Venezia và cũng là vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay.

Trên con đường tiến gần đến công trường Marcô, du khách thấy hình một con sư tử có đôi cánh đứng sừng sững trên một ngọn tháp cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp viết sách Phúc Âm đầu tiên của thánh Marcô, nhưng chứng từ của sử gia Papias, sinh sống vào cuối thế kỷ thứ hai viết như sau:

“Marcô, người thông ngôn của Phêrô, đã viết ra đúng những gì nhớ được, tuy không theo thứ tự, về những điều Đức Kitô đã nói và đã làm. Marcô không trực tiếp nghe Chúa giảng, cũng không phải là môn đệ của Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô, người đã giảng dạy theo những gì ông cảm thấy cần thiết, chứ không chủ tâm thuật lại lời Chúa một cách có hệ thống”.

Marcô là người thông ngôn và lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng,vì thế không lại gì ở cuối bức thư thứ nhất, Phêrô gọi ông là “Marcô, người con của tôi”.

Ngoài sự gần gũi với thánh Phêrô, Marcô cũng tiếp xúc lân cận với Phaolô, bắt đầu từ lần gặp gỡ đầu tiên vào năm 44, khi Phaolô và Barnaba đưa về Giêrusalem số tiền cộng đoàn Antiokia quyên được để trợ giúp cộng đoàn mẹ. Khi trở về, Barnaba đem theo Marcô, là cháu của ông.

Sau đó, trong khi đồng hành với Phaolô và Barnaba để hoạt động truyền giáo ở đảo Cypre, vì một sự bất đồng ý kiến nào đó, Marcô đã bỏ về Giêrusalem. Vì lý do này, trong chuyến truyền giáo thứ hai, Phaolô đã nhát quyết không đồng ý cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu.

Sự kiện này đã gây đổ vỡ cả đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba.

Nhưng trong những ngày cuối đời, khi chờ đợi ngày hành quyết, Phaolô đã viết thư nhắn với Timôthê: “Hãy đem cả Marcô đến nữa, vì tôi cầm sự giúp đỡ của anh ấy lắm”. Bạn bè người ta muốn gặp trong những ngày cuối đời phải là những người đồng sanh đồng tử!

Những chi tiết khác sau đó về cuộc đời của thánh Marcô không lấy gì làm chắc. Có tài liệu cho là thánh nhân chết tự nhiên. Tài liệu khác lại cho là thánh nhân được phúc tử đạo. Vương cung thánh đường tại công trường Marcô ở Venezia tự hào là còn giữ lại hài cốt của ngài.

Trong cuộc sống, Marcô đã chu toàn bổn phận mà mọi người Kitô được kêu gọi phải thực thì: Đó là rao giảng Tin Mừng và làm chứng về Đức Kitô. Marcô đã thực hiện công việc này đặc biệt qua công tác viết sách Phúc Âm, những người Kitô khác qua kịch nghệ, âm nhạc, thơ phú hay qua việc dạy đạo cho con em quanh bàn ăn của gia đình hoặc qua cuộc sống chứng tá trong những sinh hoạt và nếp sống hằng ngày.

26. NGƯỜI SÓI

Một trong những cuốn phim nói về sự bí ẩn của tuổi thơ: đó là cuốn phim có tựa đề “người sói”. Cuốn phim xây dựng trên một câu chuyện có thực xảy ra tại Pháp vào thế kỷ thứ 18. Một đứa bé đã bị thất lạc trong rừng từ lúc lọt lòng mẹ.

Mười hai năm sau, khi người ta tìm gặp nó giữa rừng, thì đứa bé không khác nào một con thú. người ta không thể nào giao thiệp gặp gỡ với nó được. Tất cả những gì một nhà giáo, một bà vú nuôi có thể làm được chỉ là chuẩn bị thức ăn và đặt vào trong xó bếp để đứa bé tìm đến và liếm thức ăn như một con thú.. Mọi người dường như bó tay, không còn cách nào để đưa nó ra khỏi đời sống hoang dã của nó.

Và một ngày kia, nó đã trốn thoát. Mọi người thở dài trước thất bại của mình… Tình cở, vì đói,nó đã trở ra xóm làng và một lần nữa người ta đã bắt lại được nó. Người ta mang nó đến nhà giáo và người được chỉ định đến gần nó để hỏi han, trò chuyện chính là bà vú nuôi. BÀ cố gắng dùng ngôn ngữ đơn sơ của mình để nói chuyện với đứa bé. Gương mặt của nó như bất động. Nhưng bỗng nhiên, trước sự ngậc nhiên của mọi người, đứa bé nắm tay người đàn bà. Nó nhìn bà một hồi lâu và trong thinh lặng, nó cầm hai tay người đàn bà áp lên mặt mình…

Lúc đó, người ta chỉ còn thấy những giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má của hai gương mặt…

Cuộc gặp gỡ giữa Thên Chúa và con người dũng diễn ra như thế. Nó nằm ở bên ngoài tất cả những dự đoán và tính toán của chúng ta. Thiên Chúa không bao giờ là đối tượng của những tính toán khoa học. Thiên Chúa cũng không là kết luận của những suy tư uyên bác. Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta trong những cái bất ngờ nhất. Thiên Chúa ở trong chúng ta, nhưng đồng thời cũng thoát khỏi tầm tay với của chúng ta… Nói tóm lại, chúng ta không thể chiếm hữu Thiên Chúa như một sự vật, nhưng trái lại, chúng ta phải chiến đấu không ngừng để nhận ra Ngài trong những cái tầm thường và bất ngờ nhất của cuộc sống…

Tin Mừng cho chúng ta thấy nhiều phản ứng khác nhau của con người đối với Chúa Giêsu. Phần đông dân chúng chỉ nhìn thấy nơi Ngài như một người dân quê xuất thân từ cái miền nghèo nàn là Galiê. Những người trí thức thì nghiên cứu Kinh Thánh để rồi áp dụng những hiểu biết sách vở của họ vào con người Chúa Giêsu. Và dĩ nhiên, những gì đã được Kinh Thánh nói đến, họ không tìm thấy nơi Chúa Giêsu… Một số khác thì đề nghị bắt giữ Chúa Giêsu vì Ngài là một tên lừa bịp…

Chúa Giêsu vẫn mãi mãi là câu hỏi cho chúng ta: “Còn các con, các con bảo Ta là ai?”. Một câu hỏi như thế, chúng ta không thể chỉ trả lời bằng những kiến thức đã lĩnh hội được qua giáo lý, thần học, Kinh Thánh… Một câu hỏi như thế chỉ có thể được trả lời bằng một cuộc gặp gỡ thân tình với Ngài.

Cũng giống như người vú nuôi già và đứa bé người sói đã cảm thông với nhau trong thinh lặng và vượt lên trên tất cả những ngôn ngữ của loài người, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta đi vào thông hiệp với ngài trong đức tin.

Đức tin đó sẽ luôn là một trận chiến dai dẳng trong tâm hồn chúng ta. Có lúc chúng ta cảm thấy như đi trong ánh sáng chan hoà. Có lúc,tất cả xung quanh chúng ta như ập phủ xuống và chúng ta không còn thấy gì nữa. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng những câu hỏi mà chúng ta không ngừng nêu lên với Ngài… Tại sao Ngài bỏ con? Chúng ta hãy không ngừng tra vấn Thiên Chúa. Đó là dấu hiệu của một cuộc đối thoại giữa Ngài với ta.

27. KẺ KHÔNG BIẾT SÁM HỐI

Ngày 3/4/1990, người tử tù Robert Alton Harris 37 tuổi đã bị đưa vào phòng hơi ngạt tại nhà thù Sa Quentin thuộc tiểu bang California bên Hoa Kỳ. Đây là lần đầu tiên kể từ 23 năm nay,tiểu bang California tái lập bán án tử hình. Hiện nay, kể từ năm 1976, sau khi tối cao pháp viện Hoa Kỳ phán quyết án tử hình là hợp hiến, tiểu bang California là một trong năm tiểu băng tại Hoa Kỳ vẫn còn giữ bản án tử hình. Người ta tính có khoảng 2.200 người trên khắp nước Mỹ đang chờ sẽ được đưa lên ghế điện hoặc vào phòng hơi ngạt.

Robert Harris là một kẻ giết người không biết gớm tay. Ngày 5/7/1978, sau khi đã mãn hạn tù hai năm vì đánh đập một người đến chết, Harris đã cùng với người em của mình định đến cướp một nhà băng tại San Diego. Để có phương tiện di chuyển, Harris đã cưỡng chiếm chiếc xe của hai ngời thanh niên đang đậu trước một quán ăn. Anh ra lệnh cho hai người thanh niên lái xe đến một nơi vắng vẻ và tại đây, anh đã rút súng hạ sát họ một cách dã man. Sau khi đã hạ sát hai người than niên, Harris vẫn còn đủ ung dung và bình tĩnh để ăn cho hết cái bánh mà hai người thanh niên đang ăn dở…Bị bắt giữ sau đó, Harris đã không để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của ăn năn sám hối…

Theo thủ tục hiện hành tại Hoa kỳ, từ lúc tuyên án cho đến lúc thi hành bản án, người tử tội thường được 7 năm để kháng cáo hoặc xin ân xá. Robert Alton Harris vẫn chưa để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của sợ sệt hoặc hối cải… Anh đã được dẫn vào phòng đầy hơi ngạt Cyanide. Chỉ trong vài phút đồng hồ, anh đã chết bằng chính cái chết mà dường như anh đã tự chọn và chuẩn bị cho mình.

Công lý và luật pháp của con người được xây dựng trên nguyên tắc: mắt đền mắt rang thế răng, hoặc tôi cho anh để anh cho lại… Kẻ có tội luôn luôn phải bị trừng trị, nặng hay nhẹ tuỳ theo tội ác người đó đã gây ra… Thiên Chúa dường như chỉ có một công lý: đó là cộng lý của tình thương. Thước đo duy nhất của công lý nơi Thiên Chúa chính là tình thương vô bờ bến. Nói như thánh Phaolô, nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng thi ân. Tội lỗi của con người, dù tày đình đến đâu, cũng không thể ngăn cản được tình thương, sự tha thứ của Thiên Chúa.

Đó phải là niềm xác tín của chúng ta mỗi khi chúng ta nhìn đến tội lỗi và suy niệm về tinh yêu của Thiên Chúa. Nếu có ai chết đời đời trong hoả ngục, điều đó không phải do sự công thẳng của Thiên Chúa, cho bằng chính sự khước từ của con người. Khi con người không còn tin ở tình yêu của thiên Chúa, khi con người tự chọn cho mình cái chết, đó là chính lúc con người tự chuẩn bị cho mình sự trầm luân. Hoả ngục đồng nghĩa với quay mặt, với khước từ, với thất vọng… Chúng ta nhìn đến thân phận tội lỗi của mình không phải để thất vọng về sự yếu hèn của chúng ta,mà chính là để ngước nhìn lên ánh mắt từ nhân vô biên của Thiên Chúa.

28. THẮP LÊN NGỌN ĐÈN CŨ

Trong một cuộc phỏng vấn, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thuật lại một sự kiện như sau: Ở Úc châu có một người thổ dân Aborigines kia sống trong một hoàn ảnh thật thảm thương. Ông ta đã khá cao niên rồi, sống trong một túp lều xiêu vẹo. Khởi đầu câu chuyện tôi nói với ông:

– Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn gường ngủ cho ông. Ông ta trả lời một cách hững hờ:

– Tôi đã quên sống như vậy rồi.

– Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp. Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp nhà cửa lại cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

– Có bao giờ ông thắp đèn này chưa? Ông ta trả lời một cách cộc lốc:

– Nhưng tháp đèn cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả. Tôi hỏi ông:

– Nếu như các nữ tu đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên công?

– Dĩ nhiên rồi.

Từ ngày đó các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Từ đó ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi chết ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin cho tôi:

– Xin nhắn với Mẹ Têrêxa, bạn tôi rằng, ngọn đèn mà Mẹ đã thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhỏ mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

Chủng ta đều cảm nghiệm được niềm vui sướng vì được yêu thương, được chính Chúa thươn ghiêu. Và chúng ta cũng đã thấu hiểu giới răn của Chúa: “Hãy thương yêu nhau, như Thầy yêu thương các con”.

29. CHÚC LÀNH CỦA NGƯỜI CHA

Đức Hồng y Cardjin, vị sáng lập của phong trào Thanh Lao Công, đã tự thuật như sau: “tôi là con của giai cấp công nhân. Nếu tôi đã có thể trở thành linh mục, là cũng nhờ cha tôi”. Cha tôi là một công nhân nghèo. Người đã phải hy sinh để nuôi dưỡng những đứa con mà hẳn người đã hãnh diện. Tôi còn nhớ, khi lên 13 tuổi, một uổi tối nọ, khi các anh chị của tôi đã lên giường đi ngủ, tôi rón rén bước xuống nhà bếp. Tôi đến gần cha tôi. Người đang ngồi trầm ngâm với chiếc ống điếu. Còn mẹ tôi thì đang khâu giày cho chúng tôi. Tôi rụt rè thưa với cha tôi: “Thưa ba, con có thể tiếp tục học không?”. Cha tôi trả lời: “Con ơi, ở tuổi con, ba đã phải đi làm rồi. Nay thì ba đã già và sức ba cũng đã mòn”.

Tôi lấy hết can đảm để thuyết phục cha tôi: “Ba ơi,con nghĩ là Chúa đã gọi con, con muốn trở thành linh mục”.

Bình thường, cha tôi là một người ít để lộ tình cảm. Nhưng tối hôm đó, khi vừa nghe tôi cho biết ý định làm linh mục, nước mắt người bỗng từ từ lăn trên gò má… Và đôi tay của mẹ tôi cũng run lên vì xúc động.

Cuối cùng, khi làm chủ được cơn xúc động, cha tôi mới thốt lên với tất cả cương quyết: “Ba má đã hy sinh quá nhiều… Nhưng để được một người con làm linh mục, ba má nguyện sẽ tiếp tục hy sinh”.

Mà quả thực, cha mẹ tôi đã tiếp tục làm việc nhiều hơn nữa để tôi có thể tiếp tục học. Vừa mãn trung học, 8 ngày trước khi lãnh thưởng cuối năm, tôi nhận được điện tín báo cha tôi đau nặng.

Trên giường hấp hối, cha tôi nhìn tôi mỉm cười: đó là chúc lành cuối cùng mà người dành cho tôi. Người cha đáng thương, hy sinh cho đến chết để người con được trở thành linh mục.

Sau khi vuốt mắt người, tôi đã thề hứa sẽ hy sinh để trở thành linh mục, nhất là linh mục cho giới công nhân.

Thiên Chúa muốn gọi ai tuỳ Ngài muốn. Nhưng tiếng gọi ấy luôn được ngỏ với con người trong một khung cảnh sống cụ thể. Khung cảnh ấy có thể là gia đình, là chợ búa, là trường học,là chỗ làm việc… Có những khung cảnh thuận tiện, mà cũng có những khung cảnh không thuận tiện. Có những nơi hạt giống ơn gọi được nẩy mầm, vun xới. Có những nơi hạt giống ấy bị bóp nghẹ…

Thiên Chúa kêu gọi ai tuỳ Ngài muốn, nhưng để được gọi luôn là người đang sống cùng và sống với những người khác. Do đó, nếu không có sự nâng đỡ của những người xung quanh, hạt giống ơn gọi cũng sẽ mai một dễ dàng…

Chúng ta hãy cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Ý thức đầu tiên của chúng ta trong ngày hôm nay phải là: ơn gọi là vấn đề của mọi người Kitô. Từ gia đình, đến trường học, công sở… mọi người chúng ta đều có trách nhiệm nâng đỡ và bảo vệ hạt giống ơn gọi mà Chúa muốn gieo vào lòng những người anh chị em của chúng ta.

thánh Gioan Bosco đã nói: Phần thường trọng đại nhát mà chúa có thể dành cho một gia đình Kitô, đó là kêu gọi một người con làm linh mục. Phần thưởng trọng đại ấy, Chúa dành cho các gia đình có con cái tận hiến cho Chúa,nhưng Ngài cũng dành cho tất cả những ai cách này hay cách khác biết cổ võ, nâng đỡ và giúp phát triển ơn kêu gọi…

30. TÔI XIN CHẤP NHẬN

tại một bệnh viện trong thành phố Hiroshima bên Nhật Bản, một người đàn bà bị phóng xạ nguyên tử từ 30 năm qua đang lên cơn hấp hối.

Bác sĩ chữa trị cho biết bà chỉ còn nhiều lắm là một hay vài giờ nữa là cùng. Theo thói quen tại Nhật Bản, người ta thông báo để người sắp chết cho biết ý muốn trong những giây phút cuối cùng.

Bác sĩ vào phòng vệnh nhân và nói hỏ vớ bà: “Akiramé”.

Người đàn bà ngước nhìn vị bác sĩ và dùng ngón tay trỏ viết vào trong lòng bàn tay trái của bà câu: “Akiramé”, nghĩa là “Tôi xin chấp nhận”.

Với tất cả bình thản, người đàn bà đã biến những giờ phút hãi hùng nhất trong cuộc sống thành một biến cố tự nhiên và thanh thản.

Cuộc sống của chúng ta dường như được cấu tạo bàng nhiều vị khác nhau: đắng cay, chua xót, ngọt bùi… Gia vị là một điều cần thiết cho thức ăn. Người không thích cay đắng thì sẽ xem trái ớt, hạt tiêu là kẻ thù của khẩu vị. Người thích cay đắng thì lại tìm ra mùi vị thơm ngon của nó.

Hoa nào cũng có mật đắng. Nhưng loài ong lại biết khéo léo để chỉ rút mật ngọt.

Thiên Chúa ban cho chúng ta một cuộc sống với muôn màu sắc và hương vị khác nhau. Chúng ta phải là loài ong đi tìm mật ngọt trong vườn hoa cuộc sống ấy. Nếu chỉ nhìn thấy mật đắng, chúng ta sẽ bỏ cuộc đầu hàng trong chán nản. Nếu biết biến báo, chúng ta có thể tìm được mật ngọt và biến những đắng cay chua xót thành mật ngọt và hương thơm.

Sau khi đã đánh bại Đức quốc xã và giải phóng Âu châu, Churchill, thủ tướng nước Anh đã tuyên bố: “Không gì buồn thảm cho bằng một chiến thắng”. Cảnh thu dọn chiến trường, cảnh kẻ khóc người cười, cảnh vợ mất chồng, cảnh cha mẹ mất con cái… Chiến thắng ngự trị trên tro tàn, đổ nát.

Dù vui với chiến thắng đến đâu, có ai mà không ngậm ngùi xót xa.

Hôm nay 30/4, đánh dấu một trong những biến cố đau thương nhất của lịch sử dân tộc. Mỗi năm chúng ta có dịp ôn lại ngày lịch sử ấy. Mỗi người một tâm tình. Nhưng dưới cái nìn đức tin, người Kitô luôn được mời gọi để nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Với tất cả bình thản và lạc quan, chúng ta hảy thốt lên như thánh nữ Têrêxa Hài Đồng giữa cơn đau quằn quại trong thân xác và tâm hồn: “Tất cả đều là ơn Chúa”.

Tuyên xưng niềm tin vào Chúa quan phòng có nghĩa là chấp nhận tất cả mọi biến cố trong cuộc sống như một khởi đầu mới,một khởi đầu với những ơn sủng dồi dào hơn. Với những kẻ Thiên Chúa yêu thương, thì mọi sự đều qui về điều tốt…

Còn tâm tình nào đúng đắn hơn trong ngày lịch sử này là cảm tạ và phó thác. Cảm tạ Chúa vì qua mọi biến cố, chúa quan phòng luôn gìn giữ chúng ta và hướng dẫn chúng ta trên đường ân phúc của Ngài. Phó thác cho Ngài bởi vì Ngài luôn có mặt trong cuộc sống để biến tất cả những thất bại,đau khổ cay đắng trong cuộc sống thành khởi đầu của một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *