Suy Niệm Lẽ Sống Tháng 2
1.RỪNG MẮM
Trong một truyện ngắn mang tựa đề “Rừng Mắm”, cố văn sĩ Bình Nguyên Lộc đã giải thích về ích lợi của cây mắm qua mẩu đối thoại sau đây giữa hai ông cháu:
– Cây mắm, sao con không nghe nói đến bao giờ?
– Con không nghe nói vì cây mắm không dùng được để làm gì hết, cho đến làm củi chụm lửa cũng không được nữa là.
– Vậy trời sanh nó ra làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội, lại sanh ra hàng hà sa số như là cỏ vậy?
– Bờ biển này mỗi năm được phù sa bổi thêm cho rộng ra hằng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lũn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một mai kia, cây mắm sẽ ngã rạp, giống tràm sẽ nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được. Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông vụ vịn vai nó nói tiếp: “Ông với tía má con là cây mắm, chân giam trong bùn. Đời con là tràm, chân vẫn còn lắm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời cây mắm tuy vọ ích, nhưng không uổng đâu con”.
Mỗi lần nhìn lại thời gian đã qua, chúng ta thường tự hỏi: “tôi đã làm gì được cho tôi, cho quê hương, cho Giáo Hội?”. Ý nghĩ về sự vô tích sự của mình có thể tạo nên trong tâm hồn chúng ta nỗi chua xót, đắng cay, thất vọng.
Chúng ta hãy nhìn lại hình ảnh của đất phù sa và cây mắm trong câu chuyện trên đây. Cần phải có cây mắm, đất phù sa mới trở thành đất thịt,để rồi từ đó cây tràm và các loại cây khác mới có thể mọc lên.
Mỗi một người sinh ra trên cõi đời này, dù tàn tật, dù dốt nát và xấu xa đến đâu, cũng có thể là một thứ cây mắm, cây tràm để cho đất đai trở thành màu mỡ nhờ đó những cây ăn trái mới có thể vươn lên.
Ước gì ý nghĩ ấy giúp chúng ta có một cái nhìn lạc quan hơn về quá khứ, về chính bản thân của chúng ta. Trong tình yêu quan phòng của Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng trong lịch sử nhân loại và đều có một giá trị bổ túc cho những thiếu sót của người khác.
Với ý nghĩ ấy, còn tâm tình nào xứng hợp hơn trong giây phút này cho bằng tri ân, cảm mến đối với Thiên Chúa Tình Yêu? cảm tạ Ngài đã tạo dựng nên chúng ta, cảm tạ Ngài đã ban chúng ta được phục vụ Ngài, cảm tạ Ngài đã cho cúng ta được hữu dụng trong tình yêu quan phòng của ngài.
2.NGƯỜI MẸ BỒNG CON
Một buổi trưa hè nóng bức. Những người hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn con đường độc điệu. Cái nắng chói chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng nào đó, mọi người bỗng ra khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt nhìn về một người thiếu phụ trẻ vửa mới bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển bánh trở lại. Người thiếu phụ bắt đầu nói, cười và đùa giỡn với đức con thư chị đang bế trên tay. Cử chỉ của người thiếu phụ, tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của mọi hành khách. Trong phút chốc, một ngọn gió mát của hiếu kỳ, của yên đới, của tham dự và của chính sức sống đã đem lại một bầu khí tươi mát cho mọi người. Mọi người như bừng tỉnh từ mỗi thinh lặng của oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây, người ta nghe có tiếng người bắt đầu nói chuyện.Nơi kia có tiếng người cười. Sự đối thoại như một giòng điện chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành buồn tẻ nữa.
Trên chiếc xe già cỗi và buổn tẻ của thế giới, một người đàn bà đã bước lên: tình yêu và sự sống đã bừng dậy. Người đàn bà đó chính là Mẹ Maria. Thế giới đã bắt đầu đi vào một giai đoạn lịch sử mới kể từ giây phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế gới cùng với Chúa Giêsu để biến nó trở thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa.
Thiên Chúa đã không những tạo dựng Mẹ Maria như biểu tượng cao với nhất của người đàn bà, của người vợ, của người mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ con đường lý tưởng, mẫu gương lý tưởng mà mỗi người phải noi theo để đạt đến cứu cánh vĩnh cửu.
Mẹ đã sinh ra như mọi người, Mẹ đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con người như mọi người, nghĩa là Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của vui buồn, của thử thách, của mất mát, của phấn đấu, Nhưng Mẹ đã trở thành mẫu gương cho chúng ta trong cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết hiệp với Chúa và tin tưởng ở quyền năng yêu thương của Ngài.Mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, Mẹ đã biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một đại lễ của gặp gỡ, của chia sẻ, của hân hoan và tin tưởng. từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi sẽ kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
3.NGÔN NGỮ CỦA TÌNH YÊU
Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.
Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên lạc với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Cho người mù loà và câm điếc chạm vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ây: đó là phương pháp của cô giáo Anna Sullivan. Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn sách, cành cây, con chó… xem ra không hẳn là điều khó. Nhưng làm thế nào để diễn tả cho Helen hiểu được những ý niệm trừu tượng như tình yêu chẳng hạn?
Ngày kia, cô giáo Anna Sullivan đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ “tình yêu” rồi ôm chầm lấy cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thực và nhiệt tình của cô. Lần đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc và mù loà bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh và cô hiểu được thế nào là tình yêu thương.
Ngôn ngữ của tình yêu là những hành động cụ thể.
Ánh mắt trìu mến, những âu yếm vuốt ve của người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một quyển sách biên khảo nào về tình yêu. Những mồ hôi nước mắt, những hy sinh từng ngày của người cha giúp chocon cái hiểu được thế nào là yêu thương hơn bất cứ lời dẫn giải nào về tình yêu. Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người yêu nhau thì sự thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức hùng hồn hơn những lời nói hoa mỹ, nhưng trống rỗng.
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài tỏ tình, ngài bộc lộ tình yêu với con người không chỉ bằng những lời nói suông, mà bằng cả một lịch sử của những can thiệp, những thể hiện cụ thể.
Một tình yêu không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp.
Đạo Kitô của chúng ta là đạo của tình yêu. Một người Kitô không sống tình yêu, không viết lên hai chữ tình yêu bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân, người đó chỉ là một người Kitô giả hiệu. Một đức tin không việc làm là một đức tin chết. Một lòng mến không được thể hiện bằng hoa trái của lòng mến chỉ là một lòng mến giả tạo.
4.LẠY CHA CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI
Con gái ông Karl Marx có lần thú nhận với người bạn gái là từ thuở nhỏ bà không được huấn luyện cho biết có tôn giáo và tín ngưỡng cũng như chính bà không cảm thấy mình có một tâm tình tôn giáo hay tin tưởng vào một thực tại vô hình nào.
Nhưng bà tâm sự tiếp: Một ngày kia bà tình cờ đọc được một kinh của người Kitô mà bà thầm mong ước là những câu kinh ấy được biến thành sự thật.
Nghe nói thế, người bạn gái của bà công khỏi ngạc nhiên và tò mò hỏi: “Kinh gì mà hay thế?”. Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi này, người con gái ông Karl Marx chậm rãi đọc bằng tiếng Đức: “Vater unser im Himmel… Lạy Cha chúng con ở trên trời..”.
Có một Giám Mục kia trên đường kinh lý giáo phận, ghé thăm gia đình một bà lão. Người ta nói bà là một tấm gương cho cả làng soi chung. Trong khi thăm, vị Giám Mục hỏi:
– Bà thường hay đọc sách đạo đức nào nhất?
– Thưa Đức cha con không biết đọc, bà vụ trả lời. Nghe nói thế, vị Giám Mục tiếp tục hỏi: “Nhưng bà hay cầu nguyện cơ mà?”. Thấy Giám Mục đã biết bí quyết của mình, bà cụ thật thà thưa:
– Thưa Đức Cha, con chỉ biết tràng hạt thôi: kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, kinh Tin Kính. Một ngày con khởi sự đọc đến mười lần, nhưng thường thì con không đọc xong.
– Tại sao thế? Vị Giám Mục muốn biết. Bà cụ thuật tiếp:
– Tại vì khi con bắt đầu đọc: Lạy Cha chúng con… con bỗng không hiểu sao Chúa có thể tốt lành đến mức cho phép một bà già hèn mọn như con được gọi ngài là Cha. Điều đó làm cho con phải khóc và rồi con không thể nào đọc tiếp hết chuỗi được. Nghe thuật lại kinh nghiệm trên, vị Giám Mục khuyến khích:
– À, này bà cụ, đó là lời cầu nguyện trị giá bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi. Bà cứ tiếp tục và luôn cầu nguyện theo câu đó.
Tục ngữ Việt Nam có câu:“Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Đó là tâm tình thông thường của con người. Bởi lẽ những thực tại dù to lớn đến đâu, nếu đã trở nên những công việc hằng ngày thường bị hạ thấp giá trị.
Ước gì kinh Lạy Cha giúp chúng ta ý thức thật sâu đậm về sự thật: Thiên Chúa là cha chúng ta, như bà cụ đơn sơ trong câu chuyện trên đã cảm nghiệm được,đồng gời giúp chúng ta sống và thực hành những gì chúng ta luôn miệng cầu khẩn trong kinh Lạy Cha.
5.MỘT CÁCH TỎ TÌNH
Du khách viếng thăm hành lang nổi tiếng của nhà thờ chính toà thánh Phaolô ở Luân Đôn có thể nghe tiếng của người hướng dẫn đang thuật lại lịch sử của nhà thờ được chuyển đi khắp nơi chung quanh vòm mái tròn to lớn của chánh điện,nhờ cách kiến trúc đặc biệt làm tiếng nói vang dội mang âm thanh đi rất xa. Cũng vì thế, nên nếu áp tai vào tường, người ta có thể nghe được những gì một người nói từ phía bên kia của cái vòm mái tròn, mặc dầu đó chỉ là một giọng nói thì thầm tâm sự.
Cách đây đã lâu, mượn nhà thờ chính toà làm nơi hẹn hò, một người hành nghề đóng giày than vãn với người yêu là chàng chưa thể tiến hành lễ cưới ngay bây giờ được. Hiện tại chàng không có cả tiền để mua da và các vật liệu cần thiết để có thể tiếp tục hành nghề, vì thế chàng đang phải thất nghiệp dài dài, đào đâu ra tiền để làm đám cưới. Nghe tin bất lành, ý trung nhân của anh chỉ biết xụt xùi khóc.
Đang lúc ấy, một người tình cơ đi ngang qua hành lang phía bên kia nghe được câu chuyện thương tâm và những lời cầu nguyện của anh thợ đóng giày. Ông ta quyết định làm một cái gì để giúp đôi trai gái được thành gia thất. Vì thế, khi chàng trai từ giã người bạn gái thất thiểu ra về, ông ta cũng tiến bước theo sau để biết chỗ ở của anh ta và lập tức cho người mang đến tặng cho anh một số da. Chàng đóng giáy phấn khởi bắt tay vào việc và không bao lâu công việc làm ăn phát đạt tạo đủ điều kiện để anh ta có thể tiến hành hôn lễ với người yêu. Mãi đến mấy năm sau, hai vợ chồng mới biết vị ân nhân của mình là ông William Gladstone, vị thủ tướng Anh Quốc lúc bấy giờ.
Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến hai tư tưởng chúng ta có thể đào sâu để củng cố niềm tin Kitô của chúng ta. Đó là: Thiên Chúa là Cha nhân hậu, người luôn lắng nghe và sẵn lòng ban cho chúng ta, con cái của Người,mọi ơn lành Người biết là sẽ mang ích lợi thật sự cho chúng ta, như vị thủ tướng Anh quốc nghe những lời tâm sự thì thầm của đôi trai gái trên và ra tay giúp đỡ họ. Vì thế chúng ta hãy kiêm tâm, bền chí trong lúc cầu xin.
6.HƯỚNG VỀ NAGASAKI
Nagasaki là một thành phố đã bị trái bom hạt nhân thứ hai tiêu huỷ cùng với hàng trăm ngàn sinh linh vào năm 1945. Khoảng 350 năm trước đó, vào tháng 2 năm 1597, 26 vị tử đạo đã bị treo vào thập tự trên một ngọn đồi quay mặt hướng về thành phố Nagasaki. Họ là những linh mục truyền giáo, tu sĩ, giáo dân. Họ là những người thuộc dòng thánh Phanxicô, dòng Tên và thành viên của dòng Ba Phanxicô. Họ thuộc mọi giai cấp xã hội: là những giáo lý viên, nông dân, y sĩ, những người giúp việc và ở mọi lứa tuổi, nhưng tất cả 26 vị được kết hợp trong cùng một đức tin và một tình yêu Thiên Chúa và Giáo Hội.
Khi các nhà truyền giáo trở lại Nhật vào những năm 1860, họ ngỡ là sẽ không tìm thấy một dấu vết nào của Thiên Chúa giáo nữa. Nhưng sau khi đã thiết lập được vài cộng đoàn bé nhỏ, các ngài ngạc nhiên khám phá ra hàng ngàn tín hữu sinh sống quanh thành phố Nagasaki vẫn âm thầm, kén lút giữ vững đức tin mà 26 vị tử đạo đã anh dũng tuyên xưng.
Vào năm 1617, 26 vị này đã được phong á thánh và cuối cùng được tôn phong hiển thánh vào năm 1862.
“Bản án tử hình của chúng tôi có đề là: những ngời bị hành quyết này đã đến từ Phi Luật Tân. Nhưng tôi, tôi không đến từ Phi Luật Tân. Tôi là người Nhật chính tông. Lý do tôi bị xử án là vì tôi đã rao giảng đức tin Kitô và thật đúng như vậy, tôi đã rao giảng Tin Mừng này. Tôi cảm tạ Chúa vì tôi được chết vì rao truyền danh Ngài. Tôi tin tưởng là tôi đã rao giảng sự thật và tôi muốn nói với các bạn những lời cuối cùng này: Hãy cầu xin ơn Thiên Chúa giúp các bạn được hạnh phúc. Tôi vâng lời Chúa Giêsu và vâng theo lệnh Ngài tôi tha thứ cho những người xử tử tôi. Tôi không hờn ghét họ. Tôi cầu khẩn Thiên Chúa thương xót tất cả các bạn và tôi hy vọng máu tôi sẽ tuôn rơi trên đồng bào tôi như là những giọt mưa giúp phát sinh nhiều hoa trái”.
Đó là lời phát biểu cuối cùng khi đang bị treo trên thập tự của thầy Phaolô Miki,người Nhật, thuộc dòng Tên, người được biết đến nhiều nhất trong số 26 vị tử đạo tại Nhật.
Ngày nay, một thời đại mới đã khởi đầu cho Giáo Hội Nhật. Tuy là một thiểu số khiêm nhường, nhưng những người công giáo tại Nhật được mọi người kính nể và được hưởng tự do hoàn toàn để tiếp tục rao giảng Tin Mừng và niềm tin thánh Phaolô Miki đã rao giảng trong cuộc sống của ngài và trong những giây phút sắp lìa trần.
Ước gì sự xác tín, lòng can đảm và sự sẵn sàng tha thứ của thánh Miki được tiếp tục sống mãi trong tâm hồn các anh chị em tín hữu Nhật và trong tất cả chúng ta.
7.MỘT LÝ TƯỞNG ĐỂ ĐEO ĐUỔI
Một buổi sáng năm 1888, Alfred Nobel, người phát minh ra chất nổ và từ đó, hái ra tiền như Nước, đã thức giấc trong bàng hoàng sửng sốt:Tất cả báo chí trong ngày đều nói đến cái chết của Alfred Nobel, vua chất nổ. Thật ra, đây chỉ là một lầm lẫn của một ký giả nào đó. Người anh của Alfred qua đời và ký giá đó tưởng lầm là chính Alfred. Nhưng dù sao,đây cũng là dịp để Alfred đọc được cảm nghĩ mà người khác đang có về ông. Trên môi miệng của mọi người,ông chỉ là ông vua của chất nổ, nghĩa là người làm giàu trên cái chết của không biết bao nhiêu sinh mạng do chất nổ gây ra. Người ta không hề nhắc đến những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các ý thức hệ. Không ai nhắc đến những cố gắng kiến tạo hoà bình của ông. Alfred Nobel buồn vô cùng về thình ảnh của một nhà “kinh doanh trên sự chết chóc” mà thiên hạ đang có về mình.
Ông quyết định làm cho thế giới hiểu được lẽ sống đích thực của ông. Với quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàm làm việc viết ngay tức khắc chúc thư trong đó ông để lại tất cả tài sản của ông để thiết lập một trong những giải thưởng giá trị nhất thế giới: đó là giải thưởng Nobel Hoà Bình, nhằm tưởng thưởng tất cả những ai góp phần vào việc xây dựng Hoà Bình thế giới.
Ngày nay, biệt hiệu của Alfred Nobel không còn là vua của chất nổ nữa, mà là Hoà Bình.
Có một lý tưởng để đeo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời: đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Những người bất hạnh nhất phải chăng không là những người sống mà không biết tại sao mình sống, sống để làm gì và sẽ đi về đâu sau cái chết. Bất hạnh hơn nữa đó là những con người chỉ xây dựng cuộc sống của mình trên những sự chết của người khác. Thế giới sẽ không bao giờ quên những Tần Thuỷ Hoàng, những Nero, những Hitler, những Stalin, những Ceaucescu và không biết bao nhiêu những con người ngày nay có kẻ đang thờ trong lăng tẩm để rồi mai ngày kẻ khác lại khai quật lên.
Người Kitô hữu là người có lý tưởng để xây dựng, có lẽ sống để đeo đuổi. Họ luôn luôn sẵn sàng để bày tỏ cho ngời khác những lý lẽ của niềm tin và hy vọng của họ. Sự bày tỏ ấy, họ không viết trong một chúc thư bằng giấy mực, mà bằng cả cuộc sống chứng tá của họ.
Khi nói về việc rao giảng Tin Mừng, Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói như sau: “tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng một chứng từ. Có chứng từ khi một người Kitô hay một nhóm người Kitô sống giữa lòng nhân loại, bày tỏ được khả năng có thể cảm thông, đón tiếp, chia sẻ cuộc sống với người khác hoặc tỏ tình liên đới với người khác trong mọi cố gắng đối với những gì là cao quí và thiện hảo. Có chứng từ khi những người Kitô chiếu rọi một cách đơn sơ và bộc phát niềm tin của họ vào những giá trị vượt lên trên những giá trị thông thường và bảy tỏ niềm hy vọng của họ vào một cái gì mà người ta không thấy hoặc không dám mư ước. Với chứng từ không lời ấy,ngời Kitô làm dấy lên trong tâm hồn của những ai đang thấy họ sống, những câu hỏi mà con người không thể tránh né được. Đó là: Tại sao họ sống như thế? Điều gì hoặc ai là người thúc đẩy họ sống như thế? Tại sao họ sống như thế giữa chúng ta?”.
Đâu là chúc thư chúng ta muốn để lại cho hậu thế? Đâu là lời biện minh của chúng ta trước mặt người đời nếu không phải là một cuộc sống chứng từ cho Nước Trời.
8. SỐNG LẠC QUAN
Năm 1989, một cuộc thi toàn quốc tế đã được tổ chức cho các thiếu nhi 13 truổi thuộc sáu quốc gia trên thế giới. Kế quả cuộc thi đó cho thấy giỏi toán nhất là các em Đại Hàn, kế đó là các em Tây Ban Nha, Anh quốc, Ailen, Canada, và đội sổ là các thiếu nhi Hoa Kỳ.
Song song với các cuộc thi toán ấy, người ta cũng làm một cuộc thăm dò với chính các thiếu nhi cũng thuộc lứa tuổi ấy. Người ta đặt một câu khẳng định nhau sau: “Tôi là một người giỏi toán”. Kết quả cuộc thăm dò cho thấy lạc quan nhất là các trẻ em Hoa Kỳ và bi quan nhất lại chính là các em Đại Hàn. Gần 70% các em Hoa Kỳ tự nhận mình là giỏi toán trong khi đó chỉ có khoảng 20% các em Đại Hàn tự nhận mình có thực tài.
Qua cuộc thi toán và thăm dò trên đây, người ta thấy rằng có thể các thiếu nhi Hoa kỳ không phải là những trẻ em giỏi toán, nhưng chúng đã tiếp thu rất kỹ bài học về lạc quan do các thầy cô không ngừng giảng dạy tại trường. Nhiều nhà giáo dục người Mỹ muốn chứng minh rằng nghiện ngập, chửa hoang, bỏ học và hầu hết các tệ đoan xã hội khác đều có thể được giảm bớt nếu con người biết sống lạc quan, nghĩa là biết tự nhận và cảm thấy mình là những con người tốt.
Lạc quan là đức tính cơ bản nhất để thành công trong cuộc sống. Có tin tương nơi chính mình,có tin đời, có tín nhiệm nơi người khác, người ta mới dám bắt tay vào việc. Ngay cả khi gặp thất bại, thử thách, người lạc quan cũng không lùi bước, bỏ cuộc.
Trong cuộc sống đức tin, lạc quan là một trong những nhân đức quan trọng nhất. Người tín hữu lạc quan là người luôn đặt tất cả tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người tín hữu lạc quan là người không bao giờ thất vọng về chính mình. Người tín hữu lạc quan cũng là người không bao giờ thất vọng về người khác.
Đá tảng để người tín hữu xây dựng sự lạc quan của mình chính là tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán, đo lường và sự tưởng tượng của con người, một tình yêu thuỷ chung.
Tình yêu ấy nói với con người rằng, không có một con người nào đốn mạt, yếu hèn, xấu xa đến nỗi Thiên Chúa đành phải bó tay.
Tình yêu ấy nói với con người rằng nơi nào tội lỗi và phản bội càng nhiều, thì nơi đó ân phúc được thi ân dồi dào hơn.
Tình yêu ấy nói với con người rằng đau khổ, cái chết chưa là tận cùng mà là khởi đầu của vinh quang, của sự sống. Tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, tình yêu ấy không bao giờ bỏ cuộc, đầu hàng.
9. KHI YÊU TRÁI ẤU CŨNG TRÒN
Ignacy Paderewki là một chính trị gia kiêm nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng của Balan. Ông đã từng là chủ tịch Hội đồng Nhà nước năm 1919.
Một hôm, ông đên thăm một người bạn. Do sự yêu cầu của gia đình người bạn, ông đã ngồi vào đàn dương cầm để biểu diễn một vài bản nhạc do chính ông sáng tác. Tiếng đàn vang lên trong cả khu phố. Từ phòng bên cạnh, một người đàn bà đang chăm chú dọn dẹp và sắp đặt lại trật tự trong nhà. Tiếng đàn du dương của người nhạc sĩ đại tài, thay vì làm vui tai bà, lại làm cho bà khó chịu. Người đàn bà đã nhắc điện thoại lên yêu cầu người bạn cho nhạc sĩ Paderewki ngưng chơi đàn, vì bà không chịu nổi tiếng ồn ào. Nhưng người bạn của nhà nhạc sĩ nổi tiếng mới giải thích: “Thưa bà, người đang chơi đàn chính là nhạc sĩ Paderewki đại tài của chúng ta đó”.
Vừa nghe nhắc đến tên của nhạc sĩ, người đàn bà láng giềng khó tính bỗng đổi giọng tức khắc. Những âm thanh trước kia bà nghe như tiếng ồn ào, nay được bà đón nhận như những khúc nhạc tuyệt mỹ. Người đàn bà bèn gọi điện thoại mời bà con và bạn bè đến thưởng thức những tấu khúc của Paderewki.
Cũng một âm thanh,nhưng có lúc người đàn bả nghe như những tiếng ồn ào khó chịu, có lúc lại được bà đón nhận như khúc nhạc tuyệt mỹ. Đó cũng là phản ứng thường tình của chúng ta. Khi chúng ta mang sẵn thành kiến đối với người nào đó, thì dường như tất cả những gì người đó nói hay làm đều được chúng ta đón nhận một cách tiêu cực. Yêu nhau thì trái ấu cũng tròn, mà ghét nhau thì cau bảy cũng bổ ra làm mười. Thái độ của chúng ta đối với người khác tuỳ thuộc ở cái nhìn của chúng ta về người đó. Nếu chúng ta chỉ nhìn người đó bằng lăng kính của thành kiến có sẵn, thì dĩ nhiên, chúng ta không thể yêu thích được bất cứ điều gì người đó nói hay làm.
Chúa Giêsu đã không nhìn người bằng những thành kiến. Ngài tiếp đón tất cả mọi người. Ngài làm bạn với mọi người. Ngài ngồi đồng bàn với mọi người. Người biệt phái cũng có thể đến với ngài, người thu thuế tội lỗi cũng có thể đến với Ngài. ngài không nhìn người với những nhãn hiệu, mà chỉ bằng đôi mắt của yêu thương. Ngài không lắng nghe bằng những tiếng đồn đãi, bằng những định kiến, mà bằng sự cảm thông. Ngài không đo lường lầm lỗi bằng thước đo của công lý mà chỉ xử lý bằng sự tha thứ.
10. LIỀU THUỐC DÀNH CHO KẺ CHÁN ĐỜI
Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn xuống giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc là cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.
Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn.Ông đa đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân,nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài ba tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ còn có giòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.
Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán đời không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói: “Tha ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. tôi cũng không muốn cầm tiền của một người hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông”. Nói xong, người hành khất ném cả chiếc ví tiền xuống giòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gậm nhắm nỗi đắng cay chua xót của ông.
Đã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn chưa muốn kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này, ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.
Không gì bồn chán cho bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.
Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.
Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh p húc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?
Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là sống cho tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình, người đó cang nghèo nàn và khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không được nhận lãnh. hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”.
cho là liều thuốc chữa trị được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống. Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất bại, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm hồn.
11. ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Buổi sáng ngày 11/12/1858 tại Lộ Đức, một thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette Soubirous cùng với hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để nhặt củi. Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết. Cô vừa mới cắp sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng Pháp, bởi vì trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với tiếng Pháp. Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang hoành hành, nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin phép mẹ được đi nặt củi.
Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cảnh cây khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó mà dân làng có thói quen gọi là massabielle. Cô đang loay hoay với công việc nhặt củi, thì kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo lời mô tả của Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trác độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiêu nữ cực kỳ diễm lệ đó chỉ mỉm cười.
Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy, Bernadette đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng trong ngôn ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hoà giữa mùa đông vẫn còn lạnh đó, người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên môi người thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn…
Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì xầm về hiện tương lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình trở lại hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được, Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người thiếu nữ mặc áo trắng xuất hiện, Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: “Nếu người đến từ Thiên Chúa, xin người hãy ở lại”. Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu. Đây là lần thứ hai người thiếu nữ áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như thế vào ngày 18/2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày. Bernadette đã được diễm phúc được Đức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Từ nơi cô đang quì cầu nguyện mỗi khi Đức Mẹ hiện ra, một dòng suối nhỏ đã ượt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.
Đó là nguồn gốc của hang Đức Mẹ Lộ Đức. Ngày nay, từng giờ từng phút, khách hàng hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến để cầu nguyện và xin ơn. Đến đó, dù tin hay không tin, mọi người đều cảm thấy có một sức mạnh lạ lùng lôi kéo để đốt lên một ngọn nến và quì tối cầu nguyện.
Hiện nay, khắp nơi trên thế giới, đều có những hang Lộ Đức được thiết kế một cách tương tự để nhắc nhớ biến cố này cũng như kêu gọi lòng tôn sùng Mẫu Tâm.
Nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng có một lần mơ ước đến tận nơi để cầu nguyện. Mẹ Maria đã không hiện ra với tất cả mọi người. Phép lạ chữa bệnh cũng không diễn ra một cách tỏ tường với tất cả mọi người đến cầu khấn. Điều quan trọng không p[hải là hành hương đến tận nơi thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gởi với chúng ta qua những người được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ điệp đó vẫn luôn luôn là hy sinh, phục vụ và nhất là cầu nguyện.
12. NHỮNG KHO TÀNG QUÍ GIÁ
Giá trị dủa những đồ cổ thường gia tăng với thời gian.
Dạo tháng 5/1990, một chiếc xe rolls Royce do Anh quốc chế tạo năm 1907 đã được bán đấu giá là 2.860.000 đô la tại bang Florida bên Hoa Kỳ. Đây là giá bán một chiếc xe cổ cao nhất từ trước tới nay. Chiếc xe này đã từng được gia đình cự phú Rockefeller sử dụng.
Nhưng đáng kể hơn cả vẫn là giá bán một bức tranh của danh hoạ người Hoà Lan là Vincent Van Gogh. Bức tranh hoạ lại chân dung của một người bạn thân của danh hoạ là bác sĩ Gachet, được thực hiện năm 1890, tức là cách sây đúng 100 năm. Trong một cuộc đấu giá tại một phòng triển lãm ở New York bên Hoa Kỳ, bức tranh đã được bán với giá là 82.500.000 đô la. Đây là giá bán cao nhát từ trước tới nay đối với một tác phẩm nghệ thuật.
Cũng dạo đó, tại Tây Đức, người ta đã đem bán đấu giá cả những tác phẩm của nhà độc tài Hitler. Một bức tranh sơn nước của ông đã được bán với giá là 6.134 đô la. Ngay cả một ấn bản của tác phẩm Mein Kampf, trong đó Hitler đã vạch ra chương trình hành động gian ác của ông, cũng được bán với giá trên 5 ngàn đô. Nhiêu di tích khác của ông và các cộng sự viên của ông cũng được đem bán đấu giá. Người mua có lẽ không nghĩ đến giá trị nghệ thuật cho bằng muốn giữ làm kỷ niện di tích có liên quan đến tội ác và một trong những thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nhân loại.
Tất cả những người môn đệ đích thực của Đức Kitô cũng là nhưng nhà nghệ sĩ mà các tác phẩm đều vượt thời gian. Tác phẩm mà các ngài để lại chính là cả cuộc sống được hoạ lại theo khuôn mẫu của Đức Kitô. Những tác phẩm ấy không bao giờ được đem bán đấu giá, bời vì chúng vô giá. Không có tiền bạc nào có thể mua được công đức và các hy sinh của các thánh. Người ta chỉ có thể chiêm ngắm bằng đôi mắt của đức tin. Có những cuộc sống xả thân quên mình mà mọi người đều biết đến, có những cuộc sống âm thầm trong gian lao thử thách mà chỉ mình Thiên Chúa mới chân nhận giá trị. Hiển hách hay âm thầm, cuộc đời của các vị thánh là những tác phẩm mà giá trị vẫn luôn tồn tại qua muôn thế hệ.
Mỗi một người Kitô chúng ta, trong cố tắng mô phỏng Đức Kitô, cũng là những nghệ sĩ cách này hay cách khác đều để lại những tác phẩm cho hậu thế. Chúng ta không để lại tài sản, chúng ta không để lại những tác phẩm nghệ thuật, mà chính là cả cuộc sống của chúng ta. Trong âm thầm theo Chúa,phục vụ tha nhân, chịu đựng vì đức tin, làm chứng tá cho Tin Mừng: chúng ta luôn được mời gọi đê lại cho hậu thế kho tàng vộ giá nhất: đó là niềm tin. Âm thầm hay rực sáng niềm tin đó phải là kho tàng quí giá nhất mà mọi người chúng ta đều được mời gọi để sống, để bồi đắp, để vun trồng và truyền lại cho các thế hệ mai sau.
13. MANG TÊN MỘT VỊ THÁNH
Hiện nay, những người vẽ bản đồ tại Liên Xô đang phải điên đầu vì tên của các thành phố. Khắp nơi trên toàn lãnh thổ, dân chúng yêu cầu hoàn lại tên cũ cho các thành phố, tên mà Stalin và những người kế vị của ông đã xoá bỏ. Tại Leningrad chẳng hạn, dân chúng yêu cầu gọi lại đô thị của họ với tên cũ là Petersburg hay St. Petersburg, nghĩa là đôi thị của thánh Phêrô. Đây là một trong những đề tài nóng bỏng mà hội đồng thành phố đang đưa ra thảo luận. Trong một chương trình truyền hình địa phương, người hướng dẫn chương trình đã tránh dùng tên Leningrad mà lại gọi là Peter, nghĩa là tên gọi cũ của đô thị. Những người yêu cầu hoàn trả tên cũ lại cho các đôi thị nói rằng: cũng như những người có quyền giữ tên cha sinh mẹ đẻ của mình, thì cũng thế, một đô thị cũng phải được quyền giữ tên khai nguyên của nó.
Tại cộng hoà Georgia, trường đại học kỹ thuật Tbilisi đã xoá bỏ tên của Lênin và ngay cả tượng của ông cũng bị đạp đổ. Tại nhiều nơi khác, người ta cũng đã xoá bỏ tên mới của các đô thị để lấy lại tên cũ vốn đã có từ thới các đôi thị này được thiết lập. Gorky sẽ được phục hồi lại như trước kia là Novgorod. Brezahnev sẽ được mang tên cũ là Nabereznye, Zhadanov sẽ được phục hồi là Mariupol, nghĩa là đô thị của Đức Maria.
Mỗi người chúng ta, khi chịu phép rửa cũng đều mang một tên mới. Chúng ta thường gọi đó là tên thánh. Thánh bởi vì đó là tên của một vị thánh, nhưng thánh bởi vì tất cả chúng ta đều được mời gọi để nên thánh, hay nói như thánh Phaolô, tất cả chúng ta đều là những người thánh. Thật thế, nhờ phép rửa, người tín hữu Kitô được tham dự vào chính sự thánh thiện của Thiên Chúa; nhờ phép rửa, người tín hữu Kitô trở thành đền thờ thánh thiện của Chúa Thánh Thần.
Đó là nguồn gốc, là căn tính của người Kitô chúng ta. mang lấy tên của một vị thánh, người Kitô luôn được nhắc nhở rằng bản chất củ họ chính là nên thánh, nguồn gốc của họ chính là sự thánh thiện. Chính vì nguồn gốc ấy, cho nên họ luôn được mời gọi để làm việc thiện, để cầu nguyện, để chịu đựng, để sống tử tế, để sống vui tươi, để sống phục vụ. Nói tóm lại, vì thông dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa, người Kitô luôn được mời gọi để sống như Đức Kitô, Đấng qua cái chết và sự phục sinh,đã thể hiện chính sự thánh thiện của Thiên Chúa.
14. HẠT THÓC DÂNG TẶNG ĐỨC VUA
Có lẽ chúng ta đã có dịp đọc bài thơ sau đây của đại thi hào Tagore: “Có một người hành khất ngồi bên vệ đường. Hôm đó, đức vua sẽ ngữ giá đi qua ngôi làng. Người hành khất cố gắng lê lết đến trước cổng làng, lòng nhủ thầm: “Đây là dịp may duy nhất đời tôi”. Từ đàng xa, khi vừa thấy xa giá xuất hiện, anh đã cố gắng đưa tay lên vẫy chào. Có ngờ đâu, trước sự sửng sốt của mọi người, khi xa giá vừa đến trước cổng làng, Đức Vua đã cho dừn xe lại và chính ông là người đưa tay ra để xin người hành khất bối thí.
Người khành khất bèn đưa tay vào trong chiếc bị cũ kỹ nhơ bẩn của mình để kéo ra một hạt thóc. Anh trịnh trọng đặt hạt thóc vào trong tay Đức Vua. Đức Vua tiếp nhận món quà từ tay người hành khất và biết đi giữa cát bụi mịt mù.
Chiều đên,khi về tới nhà, người hành khất mới mở chiếc bị của mình ra. Lạ lùng thay, giữa muôn hạt thóc, anh nhận ra một hạt vàng óng ánh. Lúc bấy giờ, người hành khất mới khóc nức nở hối tiếc: “Phải chi ta đã cho Đức Vua tất cả những gì ta có..”.
Thiên Chúa đối xử với chúng ta cũng giống như vị vua đối xử với người hành khất. Ngài muốn trao ban cho chúng ta tất cả kho báu trên thiên đàng. Qua Người Con một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài. Qua sự sống chúng ta đã lãnh nhận, qua sự hiện diện của những người anh em chúng ta, qua ngay cả những thất bại và tội lỗi của chúng ta. Thiên Chúa vẫn luôn muốn đến với từng người chúng ta như một người hành khất. Chúng ta tưởng chúng ta đang chia tay van xin trước. Kỳ thực, chính Ngài mới là kẻ không ngừng đưa tay ra để xin chúng ta mở rộng đôi tay và quả tim của chúng ta. Tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài, nghĩa là như những con người có tự do, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tôn trọng chúng ta. Ngài muốn trao ban tất cả cho chúng ta vì yêu thương. Nhưng cũng chính vì yêu thương, cho nên Ngài không làm cách nào khác hơn là van lơn, kêu mời chúng ta. Ngài chờ đợi nơi chúng ta một cái gật đầu, một hạt thóc nhỏ rút từ trong chiếc bị khốn cùng của chúng ta. Một nghĩa cử nhỏ mọn làm cho người anh em, một chút tin yêu hy vọng giữa bao nhiêu thử thách khó khăn của cuộc sống, một ít khiêm tốn và sám hối sau những lần vấp ngã: đó là những hạt thóc bé nhỏ mà chúng ta có thể trao tăng cho Chúa để từ đó lãnh nhận trở lại tất cả kho tàng yêu thương của Ngài.
15. BÀI CA VẠN VẬT
Một tác giả nọ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ giữa một nhà trí thức bi quan với thánh Phanxicô thành Assisi. Như thường lệ, mỗi lần gặp bất cứ ai, vị sứ giả của hoà bình thường cất lên bài ca vạn vật: “Chúc tụng Đấng Tối Cao, Thiên Chúa quyền năng vì anh mặt trời, vì chị mặt đất, vì anh lửa, anh gió,vì chị chết”. Nhà trí thức bi quan lắng nghe hết bài ca vạn vật của vị sức giả Hoà Bình. Nước mắt lăn dài trên gò má của ông. Nhưng đây không phải là những giọt ước mắt của cảm động, mà là của căm tức thì đúng hơn. Không còn kềm hãm được cơn giận củ mình nữa, nhà trí thức bi quan trút bỏ trên thánh Phanxicô tất cả những sôi sục của ông mà ông cũng cho là của không biết bao nhiêu kẻ vộ tội khác trên trần gian. Ông nói với thánh nhân như sau:“Hỡi người anh em kỳ diệu với cái nhìn đầy ánh sáng. người anh em ca tụng mặt trời. Người anh em có bao giớ thấy người ta chết vì bị mặt trời thiêu đốt chưa? Người anh em có bao giờ thấy cả một sa mạc nắng cháy khô cằn chưa? Người anh em có thấy người ta chết đói vì hạn hán không.
Người anh em ca tụng nước.Người anh em có bao giờ chứng kiến cảnh lụt lội, màn trời chiếu đất chưa? Người anh em ca tụng Mẹ Đất. Hẳn người anh em đã biết run sợ khi chứng kiến cảnh động đất: nhà cửa đổ nát, người người bị chôn vùi. Người anh em ca tụng anh lửa? Người anh em có bao giờ chứng kiến cảnh núi lửa thiêu rụi rừng cây cỏ và con người không? Người anh em ca tụng anh gió. Người anh em cò lẽ chưa gao giờ ra giữa khơi để chứng kiến cảnh chới với của những người đi biển khi gặp cuồng phong? Hằng năm có biết bao nhiêu người chết vì gió bão?Hằng năm có biết bao nhiêu người chết vì thiên tai?”.
Nghe tất cả những lời tả oán ấy của người trí thức bi quan, vị sứ giả của hoà bình chỉ biết mỉm cười. Ngài gật đầu trả lời: Phải, hỡi người anh em, ta nghe và biết hết tất cả những gì người anh em mới kể ra. Ta biết rằng tất cả những điều thiện hảo đều có thể trở thành xấu do sự sử dụng không đúng của con người. Đó là chân lý mà ai trong chúng ta cũng đêu có thể cảm nghiệm được trong cuộc sống mỗi ngày.
Nhưng điều ta muốn nói: đó là ngay từ những điều xấu, Thiên Chúa có thể biến thành khởi nguồn của những điều tốt đẹp hơn. Trong bài ca của ta, ta đã nhắc đến sự chết và tội lỗi là hai điều xấu xa nhất. Cái chết có thể trở thành nguồn ơn cứu thoát. Tội lỗi cũng có thể trở thành khởi điểm của hồng ân. Thánh Phaolô há đã chẳng nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào hơn”. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng và đầu hàng trong việc thi ân cả. Tất cả những gì mà ta muốn nói lên trong bài ca vạn vật của ta: đó là mời gọi anh em hãy cố gắng nhìn thấy sự thiện trong mọi sự.
16. NGỌN NẾN CHÁY SÁNG
Nữ sĩ người thuỵ Điển được giải Nobel văn chương là bà Selma Lagerloeff có kể một câu chuyện như sau: Có một kỹ mã nọ, sau khi đã tham dự một trận thánh chiến thành công tại thánh địa, đã làm một lời thề. Anh muốn đốt lên một ngọn nến ngay từ trên mộ của Chúa Giêsu và mang ánh sáng ấy về quê hương của anh là thành phố Fireheze bên Italia.
Quyết định ấy đã biến anh thành một con người mới hoàn toàn. Từ một quân nhân hung hãn chuyênn cầm gươm giết người, nay người kỹ mã đã trở thành một con người hiền hoà, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ thiệt thòi.
Trên đường trở về quê hương, cầm ngộn nến cháy sáng trong tay, người kỵ mã gặp không biết bao nhiêu kẻ cướp bóc, nhưng anh không hề đưa tay động đến chiếc gươm đang mang trong người. Anh hứa trao cho họ bất cứ điều gì họ muốn, miễn là để cho anh được phép giữ lại ngọn nến đang cháy sáng trong tay. Quân cướp lột hết tất cả những gì anh có, kể cả chiến bào và con ngựa quí của anh. Họ cho anh một con ngựa già để đi từng bước cầm chừng. Sau khi đã trải qua không biết bao nhiêu thử thách, giờ này, người kỹ mã cảm thấy thảnh thơi hơn bao giờ hết. Anh cảm thấy thơ thới vì đã trút bỏ được những của cải không cần thiết, nhưng anh vui mừng hơn cả vì vẫn còn tiếp tục giữ được ngọn nến sáng đã được thắp lên từ trên mồ của Chúa. Khi anh về đến giữa phố, nhiều người nhìn anh như kẻ khờ dại. Họ chế nạo và tìm đủ cách để dặp tắt ngọn nến trên tay anh. Nhưng người kỵ mã thà chết hơn là để cho ngọn nến tắt ngụm trên tay mình. Và cuối cùng, anh đã mang được ngọn nến cháy sáng về đến nhà thờ chính toà của quê hương anh. Anh dùng ánh sáng từ ngọn nến ấy đốt lên tất cả những ngọn nến trên bàn thờ.
Trước anh, nhiều người cũng đã cố gắng làm một lời thề như thế. Nhưng dọc đường, vì nhiều lý do khác nhau, ngọn nến đã tắt ngụm. Được hỏi: Đâu là bí quyết giúp anh thành công như thế, người kỵ mã trả lời như sau: “Tôi đặt tất cả chú tâm vào ngọn nến. Tôi sẵn sàng bỏ hết tất cả mọi sự để bảo vệ ngọn nến ấy”.
Cuộc đời của người tín hữu Kitô chúng ta vẫn thường được định nghĩa như một cuộc hành trình, một cuộc hành trình trong đó mỗi người chúng ta cầm cháy sàng trong tay một ngọn nến của đức tin. Bao lâu ngọn nến còn cháy sáng, bấy lâu chúng ta còn tiến bước. Sóng gió, tăm tối trong cuộc hành trình là chuyện không thể tránh được. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục giữ cho ngọn nến cháy sáng, chúng ta vẫn có thể tiến bước.
Chúa Giêsu nói với chúng ta: “chúng con là ánh sáng thế gian”. Ước mơ duy nhất của người kỹ mã trong câu chuyện trên đây là được dùng ngôn nến đốt lên từ mồ Chúa Để thắp sáng lên mọi ngọn đèn trong nhà thờ. Đó cũng phải là ước mơ của mỗi người chúng ta.Ánh sáng được trao ban cho chúng ta là để được truyền sang cho những ngọn đèn khác. Có biết bao nhiêu ngọn đèn đang chờ đợi một chút ánh sáng từ ngọn nến của chúng ta để được bốc cháy lên?
17. NGƯỜI BUỒN CẢNH CÓ VUI ĐÂU BAO GIỜ
Bò xứ mình để đến phục vụ tại nơi đất khách quê người quả là một lý tưởng đáng ca ngợi. Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều thanh niên thiếu nữ tây phương chán cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng trong xã hội dư dật, đã tình nguyện sang các nước thuộc thế giới thứ ba để phục vụ.
Một thanh niên họ đã xin đến Ấn Độ để phục vụ người nghèo. Ra đi hồ hởi bấy nhiêu, giờ này chạm với thực tế, anh cảm thấy thất vọng bấy nhiêu. Tất cả đều xa lạ và tất cả đều làm anh chán nản: từ khí hậu cho đến thức ăn, điều kiện sống và nhất là những khuôn mặt xem ra rất bí hiểm đối với anh. Nhưng điều làm cho anh mất hết kiễn nhẫn lại là một điều không đáng bận tâm mấy…
Người ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ và dĩ nhiên cũng không nhiều tiện nghi lắm. Anh dọn dẹp và sắp xếp căn phòng lại cho tươm tất. Duy có một chướng ngại mà anh không thể vượt qua để có thể sống bình thản: đó là sự hiện diện của một chú thằn lằn. Anh tìm đủ mọi cách để xua đuổi nó ra khỏi căn phòng, nhưng vô ích: đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này, nó chạy vào nơi khác. Cuối cùng con vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và ngự trị hẳn trong đó. Không còn biết làm cách nào khác hơn để tẩy chay con vật, anh đành phải nghĩ đến chuyện làm quen với nó.
Dần dần, con thú đã trở thành một người bạn của anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn. Khi con vật đã trở thành thân thết với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó rất nhiều đức tính trong đó quan trọng hơn cả đó là tài săn muỗi của nó.
Sự hiện diện của chú thằn lằn đã giúp cho anh khám phá được một chân lý trong cuộc sống: những khó khăn không đến từ môi trường xung quanh, mà chính từ bản thân của anh.
Chúng ta vẫn thường lặp lại câu thơ của Nguyễn Du “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”,như để nói rằng lắm khi chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm trạng của chúng ta. Khi chúng ta vui,chúng ta cảm thấy như cảnh vật xung quanh cụng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh có đẹp đến đâu, chúng ta vẫn thấy u ám. Lắm khi những vấn đề khó khăn không đến với chúng ta từ ngoại cảnh, từ những người khác, mà chính từ chúng ta. Gương mặt cau có của chúng ta thường được chúng ta nhìn thây nơi tất cả mọi người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta vui, chúng ta sẽ cảm thấy như mọi người đều vui vẻ với chúng ta. Quả thật, chúng ta đong đấu nào, thì người sẽ đong lại đấu ây cho chúng ta.
Câu chúc đầu tiên của Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra cho các môn đệ của Ngài là “bình an cho các con”. Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới thắng được sợ hãi, mới vượt qua được những khó khăn trong tâm hồn. Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới dễ dàng tha thứ và chấp nhận chính bản thân để rồi từ đó mới có thể tha thứ và chấp nhạn tha nhân cũng như mọi nghịch cảnh. Mang lấy màu xanh của hy vọng, đôi mắt chúng ta mới dễ dàng nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan. Trái lại, mang lấy bộ mặt cau có và cuồn chán, đi đâu, ở đâu, chúng ta cũng chỉ thấy bất mãn, thất vọng và khó chịu.
18. HAI BIỂN HỒ
Palestina có tới hai biển hồ… hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hổ thường được gọi là biển hồ Galilêa. Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và cá cũng chó thể sống trong đó. Xung quanh hồ này là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi. Nhà cửa cũng mọc lên rất nhiều xung quanh biển hồ này… Chúa Giêsu đã gặp gỡ với những người môn đệ đầu tiên của Ngài tại đây và Ngài cũng nhiều lần đi thuyền xuyên qua biển hổ này.
Biển hồ thứ hai tại Palestina là biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không sống nổi mà người cũng có thể trở thành bệnh hoạn nếu uống phải.Mùi hôi thôi từ biển Chết xông lên khiến không ai muốn sống gần đó.
có điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muôn thú cũng như con người.
Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho nó do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.
thánh Phaolô đã ghi lại lời vàng ngọc của Chúa Giêsu như sau: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”. Thật ra, càng trao ban, người ta càng nhận lãnh trở lại nhiều hơn.
Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa toả lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng.
Càng trao ban, càng được nhận lãnh: đó là một định luật sống của con người trong mọi lãnh vực. Tất cả con người chúng ta, tất cả sự sống của chúng ta, tất cả tài năng của chúng ta, tất cả những gì chúng ta có: tất cả đều do Chúa ban tặng. Thiên Chúa ban tặng tất cả cho chúng ta để chúng ta trao ban cho người khác và như vậy, chúng t mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực… Cũng như biển hồ Galilêa tiếp nhận nước từ dòng sông Jordan để rồi ban tặng cho những sông lạch xung quanh và nhờ đó,trở thành trong xanh tươi tốt, cụng thế, sự sông chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa chỉ trở thành tươi tốt nếu nó được chia sẻ và trao ban cho ngời khác. Càng giữ lấy riêng cho mình, sự sống trong chúng ta sẽ héo tàn và chết dần chết mòn.
19. THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG
Người Do Thái thường nói đến sự quan phòng của thiên Chúa bằng mẩu chuyện như sau: Có hai người bộ hành đi lên đường đi đên một phương xa. Họ dùng một con lửa để chuyên chở hành lý. Để cho con lửa có bạn, họ mang theo một chú gà cồ, và đêm đến, họ đốt đuốc đẻ soi đường.
Một người bộ hành là một tín hữu rất đạo đức. Trên miệng ông lúc nào cũng có câu nói: “Thiên Chúa là Đấng tốt lành trong tất cả mọi sự”. Người bạn đồng hành của ông thì lại là một người rất cứng lòng tin. Ông rất bực mình mỗi khi ông nghe người bạn ông thốt lên những lời ca tụng lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Lên đường chừng vài phút đồng hồ, ông đã cảnh cáo người bạn có lòng tin như sau: “rồi đây anh sẽ thấy anh tin Chúa đến độ nào”.
Trước khi mặt trời lặn, họ đến một ngôi làng nhỏ. Họ tìm một nơi để qua đêm. Họ gõ cửa khắp nơi, nhưng không có ai đón tiếp họ. Cuối cùng họ đành phải ra khỏi làng và gìm đến bìa rừng để qua đêm. Trong cảnh màn trời chiếu đất, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: “Nào. Chúa của anh có tốt không?”. Người bạn đồng hành luôn tin tưởng ở Chúa quan phòng bình tĩnh đáp lại: “Đây là chỗ tốt nhất mà Chúa đã dành cho chúng ta để ngủ qua đêm này”. Đêm đó, họ nằm ngủ dưới một gốc cây lớn nằm sát bìa rừng. Họ cột chú lừa vào một gốc cây gần đó. Họ chưa kịp đốt lên ngọn đuốc thì một tiếng mạnh từ xa vang lại. Thì ra,chỉ trong chớp nhoáng, một chú sư tử đã đến cắn xé con lừa và mang đi. Vừa thương tiếc cho chú lừa, vừa lo sợ cho thân phận của mình, hai người bộ hành chỉ còn biết leo lên cây để tránh tai hoạ.
Vừa tức giận, vừa mỉa mai, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: “Nào, Chúa của anh còn tốt nữa không?”. Người tín hữu ngoan đạo dõng dạc tuyên bố: “Nếu con sư tử không bắt gặp con lừa trước, thì chắc chắn nó đã bổ nhào trên chúng ta rồi. Chúa là Đấng tốt lành”.
Một vài phút sau, con gà cồ bỗng kêu lên thất thanh. Hai người bộ hành mới trèo cao hơn. Họ nhận ra con gà cồ đang nằm trong nanh vuốt của một chú mèo rừng. Người bạn cứng lòng tin chưa kịp thốt ra một lời cây đắng nào, thì người tín hữu ngoan đạo đã chúc tụng như sau: “Tiếng kêu thất thanh của con gà cồ lại một lần nữa giúp chúng ta thoát nguy hiểm. Cám ơn Chúa là Đấng tốt lành”.
Hoạ vô đơn chí. chỉ vì phút sau đó, một cơn gió mạnh ùa đến,ngọn đuốc bỗng tắt ngụm đưa hai người vào trong cảnh tối tăm ghê rợn. Lần này con người cứng lòng tin lại lên tiếng mỉa mai như sau: “Xem chừng như Chúa của anh làm việc phụ trội trong đêm nay”. Lần này, người tín hữu ngoan đạo chỉ biết giữ thinh lặng.
Sáng hôm sau, hai người mon men trở lại làng để mua thức ăn. Họ mới hay biết rằng đêm hôm đó một băng cướp đã vào làng và họ đã vơ vét tất cả tài sản của dân làng. Nhìn cảnh tượng hoang tàng của ngôi làng và nhìn lại sự toàn vẹn của mình, người tín hữu ngoan đạo mới đắc thắng giải thích cho người bạn như sau: “Anh đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Giá như đêm hôm qua, chúng ta thuê được một chỗ trọ trong làng, thì có lẽ chúng ta cũng không thoát khỏi tay của bọn cướp. Nếu cơn gió lớn không làm mất ngọn đuốc của chúng ta, thì hẳn bọn chúng đã nhìn thấy chúng ta. Bạn thấy chưa, tong tất cả mọi sự, Thiên Chúa là Đấng thiện hảo”.
Tin ở Thiên Chúa quan phòng không có nghĩa là bảo rằng tất cả mọi tai hoạ rủi ro xảy đến trong cuộc sống đều do Chúa gởi đến, nhưng có nghĩa là, khi đứng trước một bất hạnh mà mình không thể tránh khỏi, chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa thiện hảo và quyền năng đến độ có thể biến sự bất hạnh ấy thành khởi điểm của một hồng ân cao cả hơn.
Trong ánh sáng phục sinh của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để nhìn vào các biến cố trong cuộc sống bằng cái nhìn lạc quan và tin tưởng ấy. Cái chết ô nhục của Đức Kitô trên thập giá quả là một bất hạnh và là một tội ác, nhưng Thiên Chúa quyền năng và yêu thương đã biến thành khởi điểm của nguồn ơn cứu thoát.
Giữa muôn nghìn thử thách và đớn đau củ cuộc sống, chúng ta hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa đang dành cho chúng ta một ân huệ cao cả hơn ngoài sự chờ đợi của chúng ta. Chúng ta hãy xưng tụng tình yêu quan phòng của Ngài.
20. GIÁO ĐƯỜNG
Văn hào Aleksandr Solzenicyn đã ca tụng những ngôi giáo đường bằng những vần thơ như sau:
“thư thái trên sườn đồi, ngạo nghễ trên những ngọn núi cao, hãy ẩn mình bên những dòng sông sâu, những ngôi giáo đường đẹp như những công chúa vận xiêm y rực rỡ.
Nhìn xuống những mái nhà gỗ tranh là những ngọn tháp chuông hùng dũng. Từ phố chợ đến thôn quê, từ đỉnh tháp hướng về trời cao, những tiếng chuông công ngừng giục giã gọi nhau.
Từ thuở nào con người vẫn ích kỷ nhỏ nhen. Nhưng chiều về, khi tiếng chuông đổ hồi trên thôn xóm, trên đồng ruộng, trên núi rừng, người người dừng lại, ngẩng nhìn và ra khỏi cuộc sống thấp hèn của họ.
Cha ông của chúng tôi đã để lại phần cao quí nhất của các ngài. Mãi mãi, tâm tình của các ngài vẫn còn ghi khắc trong những viên đá này, trong những tháp chuông này”.
Ở bất cứ nơi nào trên thế giới, giáo đường vẫn luôn là biểu trưng của sự sống. Còn gì buồn thảm cho bằng một ngôi giáo đường biến thành bảo tàng viện hoặc không còn người lui tới.
Giáo đường là nhà của con người: chính nơi đây con người nhận lấy sự sống mới và cũng chính nơi đây, con người được yên nghỉ sau cuộc sống tạm bợ nơi trần gian. Giáo đường cũng là nơi chứng kiến bao buồn vui của kiếp người.
Giáo đường là nơi gặp gỡ: gặp gỡ giữa trời cao và đất thấp, gặp gỡ giữa con người với thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn cả, giáo đường chính là nơi gặp gỡ giữa người với người: gặp ở trong lời cầu nguyện, gặp gỡ nhau trong chia sẻ, gặp gỡ nhau trong lời chào bình an, trong cái bắt tay của tha thứ, của hoà giải,gặp gỡ nhàu để nối kết vòng tay với người khác, gặp gỡ nhau để trở lại cuộc sống với hăng say và nhiệt thành hơn.
Chúng ta không thể đến nhà thờ mỗi ngày mà vẫn khước từ gặp gỡ với tha nhân. Chúng ta không thể đến nhà thờ mỗi ngày mà lại không muốn gặp gỡ Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta không thể tách biệt nhà thờ ra khỏi cuộc sống. Bao lâu ngôi giáo đường còn đó, bấy lâu người Kitô vẫn còn được mời gọi để nối kết đức tin với cuộc sống hằng ngày.
21. NGƯỜI HỦI
Raoul Follreeau, vị đại ân nhân của người phong cùi trên thế giới có kể lại mẩu chuyện đáng thương tâm như sau:
Trong một thị trấn nhỏ nọ, một người đàn ông lâm bệnh nặng. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ nghi ngờ anh ta đã mắc bệnh phong hủi… Tuy không là một phán quyết dứt khoát, nhưng kể từ đó người ta không còn thấy anh ra khỏi nhà nữa. Gia đình anh mỗi lúc lại càng xác tín hơn về bệnh tình của anh. Thế là để che giấu con người mà họ coi như là một sự xấu hổ chung, những ngời thân của anh đã giam anh trong một cái mùng lớn. Người đàn ông đáng thương chỉ còn sống vất vưởng nhờ lương thực tiếp tế mỗi ngày. Vũ trũ của anh chỉ còn là khung mùng phủ kín bốn chân giường. Ngậm đắng nuốt cay từng giờ từng phút, người đàn ông chỉ còn mỗi một hy vọng: đó là trốn thoát được chính nhà giam của anh… Ngày nọ, anh đã trốn ra khỏi khuôn mùng và gia đình của anh. Nhưng chẳng may, người ta đã chặn bắt được anh. Lần này, người đàn ông khốn khố dường như không còn một hy vọng nào nữa. Anh chỉ còn muốn tìm sự giải thoát qua cái chết.
Lần thứ hai,anh trốn khỏi vũ trụ tối tăm của anh. Nhưng lang thang mãi mã vẫn không tìm được sự tin tưởng và giúp đỡ của những người khác, anh đã tìm đến cái chết như một lời biện hộ cuối cùng. Người đàn ông đã mua thuốc ngủ và tự vận trước mặt mọi người. Cái chết của anh đã gây chấn động trong dư luận. người ta yêu cầu cho khám nghiệm tử thi. Kết quả đã làm cho mọi người sửng sốt: anh đã không bao giờ mắc bệnh phong cùi…
Những ai đã và đang sống dưới một chế độ độc tài trong đó mọi thứ tự do cơ bản nhất của con người bị chối bỏ, đều cảm nhận được sự độc hại của thái độ thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa người với người… Một xã hội mà quan hệ giữa người với người chỉ xây dững trên dối trá, lừa đảo, hận thù, ganh ghét… Một xã hội như thế không thể không đi đến chỗ diệt vong…
Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để xây dựng Nước Chúa. Nước của chân lý, của công bình, của bác ái, của sự tín nhiệm lẫn nhau…
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta thái độ kiểu mẫu: Ngài không nhìn người bằng một nhãn hiệu, bằng một lăng kính có sẵn. Tất cả mọi người, dù tội lỗi thấp hèn đến đâu cũng đêu được ngài nhìn dưới ánh mắt của cảm thông, của yêu thương, của tha thứ… Tất cả mọi người đều được nhìn dưới ánh mắt yêu thương của Ngài như một giá trị độc nhất vô nhị trong tình yêu của Thiên Chúa…
Để được một cái nhìn như thế, chúng ta luôn được mời gọi để gạt bỏ mọi thứ thành kiến ra khỏi tâm hồn chúng ta. Trong tất cả mọi sự và trong mọi người,chúng ta hãy mặc lấy cái nhìn của Chúa Giêsu. Chỉ với cái nhìn ấy, chúng ta mới mong tái tạo được sự tín nhiệm và tin tưởng lẫn nhau trong xã hội chúng ta.
22. LẦM LỖI LÀ CHUYỆN THƯỜNG
Hôm nay kỷ niệm ngày sinh của George Washington, vị tổng thống đầu tiên của Hiệp chủng quốc Hoa kỳ. Con người đã dó công đưa nước Mỹ đến độc lập, tự do và phồn thịnh ấy nổi tiếng là người nóng nảy, nhưng luôn biết phục thiện và yêu sự thanh liêm. Ngay từ lúc thiếu thời, ông đã tỏ ra là người đơn thành và sẵn sàng nhận lỗi của mình…
Ngày kia,cậu bé Gerorge được trao cho một con dao để ra vườn làm co. Trong vườn có một cây anh đào nhỏ mà cha mẹ cậu rất quí. Chưa phân biệt được thế nào là cỏ dại thế nào là cây ăn trái, George đã chặt đức cây anh đào vô cùng quí giá của cha mẹ mình.
Cha của George đau lòng nhìn thấy cây anh đào đổ xuống trên mặt đất. Ông đã thoáng nghi George là thủ phạm, nên mới hỏi cậu: “Con có biết ai là người đốn hạ cây anh đào không? Cha không muốn thấy điều đó được lặp lại một lần nữa…”. George suy nghĩ một lúc và trả lời: “Chính con là người đã đốn cây anh đào. Cha cứ phạt con đi”.
Và George ngạc nhiên vô cùng khi nghe cha cậu trả lời: “điều con vừa làm là một điều sai trái. Nhưng con đã chữa được điều sai trái đó khi dám nói lên sự thật. Cha đánh giá lòng can đảm và sự thành thật của con cao hơn là trăm ngàn những cây đẹp như thế…”.
Không ai trong chúng ta, đặc biệt là tuổi trẻ, mà lại không sống với hy vọng tốt đẹp hơn trong tương lai. Nhưng phải thành thật mà nói thì cuộc đời không phải lúc nào cũng là con đường trải hoa, vì nhiều lần chúng ta gặp hoàn cảnh vô cùng tệ hại. Đối với nhiều người, dường như hy vọng về những điều tốt đẹp chỉ thành tựu trong mơ mộng mà thôi và thực tế rất phũ phàng.
Tuổi trẻ đi qua rất nhanh. Ngày tháng trội qua, chúng ta chẳng mấy chốc già đi. Tóc trên đầu chúng ta mỗi lúc một điểm thêm nhiều muối tiêu. Sau khoảng 45, mỗi lần nhìn vào trong gương, chúng ta giật mình thấy mình mau già mau quá. Nhìn lại tập ảnh lưu niệm của gia đình, lắm khi chúng ta không có can đảm ngắm lâu hơn. Chẳng những gương mặt, mái tóc bên ngoài, mà tuổi già còn gặp niều hạn chế hơn tuổi trẻ nữa. Những môn thể thao trước kia chúng ta ưa thích, nay không còn đủ sức để chơi nữa. Cặp mắt sắc sảo đã phải đeo thêm kính mới đọc được sách. Khi bước vào lớp tuổi 60 trở lên, bước đi của chúng ta trở nên chậm chạp. Trí nhớ mỗi lúc một ra kém cỏi…
Tuổi trẻ là một chuỗi những vấp ngã, tuổi già là những tháng ngày của ân hận và hối tiếc khi chợt nhận ra giới hạn của mình. Cuộc đời là thế. Chúng ta có nên bi quan không?
Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để sống hy vọng. đổ vỡ, thất bại khộng phải là những ngõ cụt trong cuộc sống, nhưng phải là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn. Cuộc đời không phải là một chuỗi ngày giữa chiếc nôi và ngôi mộ. Cuộc đời là một hành trình đi từ chỗ hữu hạn đến chỗ vô hạn, từ chỗ tuyệt vọng đến chỗ đầy hy vọng. Và cuối cùng cánh cửa của sự chết mà chúng ta rồi đây sẽ bước qua chỉ là một khúc quanh của cuộc hành trình này mà thôi…
23. ÁNH SÁNG HỒI PHỤC
Mới đây bệnh viện thuộc trường đại học y khoa Stanford bên Hoa Kỳ đã sáng chế ra một loại cửa sổ nhân tạo đặt trong các phòng hồi sức, nhằm giúp cho bệnh nhân chóng được hồi phục. Người vẽ kiểu cho loại cửa sổ nhân tạo này là một phó nhòm thuộc tiểu bang California. Ông đã chứng kiến cái cảnh hoi hóp thở của cha mình, khi nhìn lên trần bảng của phòng hồi sức chỉ thấy toàn một màu trắng với những lỗ đen. Các bác sĩ cho biết, vì phải nằm lâu ngày trong căn phòng thiếu cửa sổ, thiếu ánh sáng tự nhiên, cho nên không những bệnh nhân khó hồi phục mà còn để lộ những triệu chứng của bệnh tâm thần.
Với cảnh cửa sổ nhân tạo nói trên, nhờ một hệ thống điện toán tinh vi, bệnh nhân có thể cảm thấy như đang tiếp xúc với ánh sáng bên ngoài. Trong 24 giờ đồng hồ, ánh sáng trên khung cửa nhân tạo thay đổi 650 lần. Bệnh nhân có thể nhìn thấy ánh mặt trời lên cũng như những áng mây bay qua khung cửa. Tất cả đều nhắm để giúp cho bệnh nhân cảm thấy mình gẫn gũi với thiên nhiên và nhờ đó dảm thấy bớt cô đơn.
Trong tương lai gần sây, người ta cũng có thể tạo ra cảnh trăng lên cũng như những vì sao lấp lánh trên khung cửa.
Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống. Riêng với con người, ánh sáng không những ần cho sự sống của thân xác, mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối dễ làm cho con người cô đơn và sợ hãi…
Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc sống chúng ta. Bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê… Càng giam mình trong bóng tối ấy, chúng ta cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh hoạn. Người càng sống ích kỷ, người càng nghiền ngẫm đắng cay, hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình…
Chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người cũng như để chữa trị những băng hoại trong tâm hồn. Có ánh sáng của Lời Chúa để soi sáng dẫn từng đường đi nước bước của chúng ta. Có thứ ánh sáng của những nghĩa cử từng ngày. Không có một nghĩa cử nào qua đi mà không thêm một chút ánh sáng để giúp chúng ta hồi phục vì những vết thương đau trong cuộc sống. Một hành động bác ái, một biểu lộ tin yêu dù nhỏ mọn đến đâu cũng là một tia sáng mang hy vọng đến cho tăm tối cô đơn trong tâm hồn chúng ta.
24. KHÔNG KHÍ
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ từ đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả lăng một cái mỉm cười thinh lặng…
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ vũng một ước muốn. Vị linh đao vẫn mỉm cười và tiếp tục giữ sự thinh lặng dố hữu của ông> Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh nhiên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa, con cần có không khí để thở”.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con có cảm thấy ước ao được gặp gỡ Thiên Chúa như vậy không? Nếu con khao khát như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề có ước muốn ấy, thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã làm việc thiện. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã tránh được điều xấu. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã cầu nguyện. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta sống tử tế. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta can đảm. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta cố gắng rèn luyện ý chí. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng hy sinh phục vụ…
Sự thánh thiện của chúng ta chính là Thiên Chúa. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta mới có thể làm việc thiện, mới có thể tránh được điều xấu, mới có thể cầu nguyện, mới có thể can đảm, vui tươi…
Cũng như người đệ tử khao khát gặp chúa, chúng ta hãy xin Ngài ban cho chúng ta được thông dự vào sự sống của Ngài, để nhờ đó chúng ta mới có thể mang lại hoa trái của sự thánh thiện.
25. DÂN THÀNH ATHÈNES
Ngày kia, triết gia Esopos người Hy Lạp ngồi bên vê đường trước cổng thành Athènes. Một người khách lạ tình cờ đi qua dừng lại hỏi ông như sau: “Dân thành Athènes như thế nào?”.
Triết gia bèn trả lời: “Xin ông cho tôi biết ông đến từ đâu và dân tình ở đó như thê nào?”. Người khách lạ nhíu mày cằn nhằn: “tôi đến từ Argos và dân Argos toàn là một lũ người láo khoét, trộm cắp, cải cọ suốt ngày”.
Một cách bình thản,triết gia Esopos mỉm cười đáp: “Tôi rất lây làm buồn để báo cho ông biết ràng rồi ra ông cũng sẽ thấy dân Athènes còn tệ hơn thế nữa”.
Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi: Dân thành Athènes như thế nào? Người khách lạ ấy cũng cho biết mình đến từ Argos là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải rời xa, bởi vì dân chúng Arogs là những người rất dễ thương dễ mến…
Lân này, triết gia Esopos cũng biểu đồng tình với người khách lạ như sau: “Này ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng ông sẽ nhận thấy dân thành Athènes cũng dễ thương dễ mến như thế”.
Câu chuyện mang tính cách ngụ ngôn trên đây muốn nói với chúng ta rằng cách thẩm định người khác tuỳ thuộc ở tình cảm của mỗi người. Cùng một con người ấy, cùng một khung cảnh ấy, nhưng có người ưa, có kẻ chê. Sự khác biệt trong cách thẩm định ấy thường không nằm trong người khác hoặc cảnh vật khác, mà chính là ở tâm trạng của mỗi người. Thi sĩ Nguyễn Du đã có lý khi bảo rằng: “Người buổn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để có cái nhìn lạc quan về các biến cố và con người, nghĩa là chúng ta được mời gọi để luôn có cái nhìn tích cực về ngươi khác và các biến cố. Một thất bại rủi ro xảy đến ấy ư? Người Kitô có thể nhìn vào đó như khởi đầu của một ân ban cao cả hơn. Một người nào đó mang một bộ mặt đầy ác cảm đến với ta ư? Người Kitô hãy cố gắng khám phá ra những đường nét dễ thưng dễ mến trong khuôn mặt, trong cách cư xử của người đó. Chúng ta hãy làm như loài ong: từ giữa bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, loài ông chỉ rút ra toàn một ngọt…
Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ghi trong nhật ký của ngài như sau: “Do bản chất, tôi vui vẻ và sẵn sàng chỉ thấy nhựng khía cạnh tốt đẹp của sự vật và con người hơn là phê bình chỉ trích và đưa ra những phán đoán độc hại… Mỗi một cử chỉ khiếm nhã đối với bất cứ ai, nhất là những người nghèo hèn, thấp kém, hoặc bất cứ một chỉ trích phá hoại nào, đều làm cho tôi đau lòng”.
26. THIÊN CHÚA NÓI KHÔNG
Có một bài thơ của một tác giả vô danh mà Hồng Y Jaime Sin, Tổng Giám Mục Manila, Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý nhất và thường trích dẫn trong các bài giảng của ngài. Bài thơ ấy như sau:
Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: “Không”. Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất cỏi mà chính tôi mới là người phấn đầu để vượt thắng nó.
Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặc và chúa trả lời “Không”. Ngài nói rằng tinh thần mới lành lẵn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời “Không”. Ngài nói rằng kiên nhẫn là trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời “Không”. Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tuỳ tôi.
Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời “Không”. Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.
Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời “Không”. Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.
Tôi đã hỏi: Liệu Ngài có yêu tôi không và Ngài trả lời rằng có. ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó tôi sẽ được lên thiêng đàng, vì tôi đã tin.
Tôi đã sin Chúa giúp tôi yêu nến tha nhân như Ngài yêu thương tôi và Chúa nói: “Cuối cùng, con đã xin đúng điều Ta chờ đợi”.
Nhìn lên thập giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để tin nhận rằng Thiên Chúa đã yêu thương con người, Ngài đã yêu thương đến độ đã ban Người Con một của Ngài cho thế gian. Tình yêu của Thiên Chúa nhiệm mầu thẳm sâu đến độ sự thất bại,cái chết ô nhục đã trở thành Một Dấu Chứng.
Tình yêu ấy nhiệm mầu thẳm sâu đến độ ngay cả khi Thiên Chúa xem ra nói không với chúng ta, Ngài vẫn yêu thương chúng ta. Ngài nói không khi chúng ta xin được khoẻ mạnh, và bệnh hoan vẫn bám lấy chúng ta. Ngài nói không khi chúng ta xin được thành công và thất bại lại đến với chúng ta. Ngài nói không khi chúng ta xin được cơm bánh hằng ngày và đói khổ lại cấu xé chúng ta… Qua những cái không ấy, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương chúng ta…
Xin cho chúng ta cảm nhận được tình yêu ấy mỗi khi chúng ta nhìn lên cái chết ô nhục của Người Con một Thiên Chúa trên thập giá. VÀ cũng giống như Người Con một ấy, xin cho chúng ta vẫn tiếp tục dâng lời chúc tụng ngay giữa niềm đau tưởng chừng như không còn chịu đựng nổi. Và giữa trăm nghìn đắng cay chua xót, xon cho chúng ta cũng được tiếp tục thốt lên lời xin tha thứ như Ngài… Mãi mãi, xin cho chúng ta luôn phó thác như ngài.
27.ĐÁM ĐÔNG DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ.
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ thứ 17 đó là bức tranh “Ba thập giá”. Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trỗi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gơưng mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mắt hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt. Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đã ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá.l Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và Lamã cách đây hai ngàn năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ Lamã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đớn đau như thế? Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng t mà Ngài đã phải bị treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một xỉ vả hoặc chính một cái đóng đinh vào thân thể ngài. Khi chúng ta chối bỏ người anh em, khi chúng ta đối xử tệ bạc với người anh em, khi chúng ta chối bỏ chính mình mà quên sự đau khổ của người xung quanh, đó chính là lúc chúng ta dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá.
28. NỤ CƯỜI CỦA BÀ SARAH
Kinh Thánh thuật lại rằng, khi bà Sarah, vợ của tổ phụ Abraham, một lão bà gần đất xa trời, được Chúa cho biết là sẽ cưu mang và sinh con, bà đã có một phản ứng thật là người và cũng thật là kỳ diệu: bà đã cười! Phải, bà cụ già Sarah có lẽ đã cười nắc nẻ khi đứng trước một hoàn cảnh xem ra trớ trêu như thế: một người đàn bà trên 70 tuổi mà còn được Thiên Chúa cho có con…! Thiên Chúa xem ra thích khôi hài!
Và khi Thiên Chú hỏi tại sao cười, Sarah lại chối rằng mình đã không hề cười. Có lẽ do sợ hãi mà Sarah đã nín cười. Sự sợ hãi có lẽ khong còn cho con người được nhìn thấy khía cạnh đáng cười, đáng vui trong cuộc sống… Nhưng liền sau khi sinh con, bà Sarah đã tìm lại được óc khôi hài cho nên bà đã đặt cho đứa con một cái tên khá ngộ nghĩnh là Isaac; Isaac theo tiếng Do Thái có nghĩa là được sinh tư một người đã cười…
Cười, cười một cách lạc quan: có lẽ đó là một trong những nét nổi bật của người có niềm tin. Người ta thường định nghĩa rằng: một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn… Tất cả các vị thánh đều là những người có óc khôi hài. Các ngài là những con người đã từng biết cười với cuộc sống, với tha nhân.
Thánh Phanxicô thành Assisi, vị sứ giả của hoà bình,đã có lần tuyên bố: “Hãy trả lại sự buồn phiền cho ma quỷ, bởi vì chỉ có ma quỷ mới có đủ lý do để buồn phiền”.
Cha sở họ Ars, là thánh Gioan Maria Vianey, mặc dù thường được người ta tạc tượng như một con người buồn bã, ảo não, nhưng kỳ thực không ai có tâm hồn vui tươi lạc quan như ngài. Thánh nhân đã nói: “Linh hồn của những ai phục vụ Chúa đều được tràn ngập vui mừng, họ luôn luôn sống như nghỉ ngơi và luôn luôn sẵn sàng để ca hát…”.
Thánh Tomas Moore khi bị đưa lên máy chém, đã nói đùa với ngươi lý hình rằng hãy để cho ngài được giúp một tay, cho việc hành quyết được dễ dành. Ngài còn nói thêm rằng, sau khi đã chém đầu ngài, chớ đụng đến bộ râu vì bô râu của ngài không hề phản bội một ai…
Một vị tu sĩ nào đó vào thời Trung cổ đã viết như sau: “Một nụ cười và óc khôi hài thu hút được nhiều người đến với tôn giáo hơn là những gương mặt dài vì ủ dột”.
Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng: khi ăn chay hãm mình chúng ta hãy xức dầu thơm vào người.
Còn thứ dầu thơm này quý giá hơn để tô thắm cho gương mặt của chúng ta cho bằng niềm vui.
Cuộc sống dù có trăm nghìn vất vả, đau thương vẫn là cuộc sống đã được Chúa trao ban như một kho tàng cao quí nhất.
Tình đời có đen bạc, nhân nghĩa có phôi pha: những con người đang sống với chúng ta vẫn là những người con cái Chúa và là anh em của chúng ta.
hãy cưới với cuộc sống, hãy cười với người anh em của chúng ta: đó là sứ điệp của Kitô giáo mà trọng tâm là mầu nhiệm phục sinh. Qua mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa đã cười cợt và thách thức tội lỗi và sự chết. Sự sống và niềm hy vọng đã phát sinh từ cái chết của Đức Kitô.