SUY NIỆM LẼ SỐNG-THÁNG 9
1. BỜ DẬU TRƯỚC NGÕ
Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị… Ở đó, chàng đã ăn chơi trác táng… Kiếp sống sa đoạ đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả áo trong nhà ra treo kín cả dậu trước ngõ.
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta.
2. KHUÔN MẶT GIUĐA
Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử hội hoạ đó là câu chuyện danh hoạ Leonardo da Vinci đi tìm người mẫu để hoạ lại khuôn mặt của Giuđa, kẻ phản bội.
Leonardo đang miệt mài trên bức tranh “Bữa ăn cuối cùng” của Chúa Giêsu với các môn đệ. Tất cả các khuôn mặt, từ Chúa Giêsu đến các môn đệ, đều đã hiện nguyên hình trên khung vài. Nhưng đến lúc phải tô vẽ cho khuôn mặt của Giuđa, danh hoạ Leonardo da Vinci đã tỏ ra lúng túng vì ông không biết phải tìm một người nào làm mẫu cho con người phản bội này… Ông đã phải đi rảo khắp nơi để tìm một khuôn mặt xấu xí, hiện thân của phản bội, gian trá. Sau mấy tháng trời tìm kiếm, cuối cùng ông đã gặp được một khuôn mặt mà ông cho là ưng ý nhất. Trong khu xóm lầy lội, nghèo nàn, ông đã khám phá được một khuôn mặt mà ông cho là có đầy đủ những đường nét của tội ác. Ông đã lần mò đến gần người đó, và sau khi giải thích về bức tranh mình đang thực thiện, ông đã đề nghị người đó đến xưởng vẽ của ông để bắt tay vào công việc.
Người được chọn làm người mẫu cho Giuđa nhìn nhà danh hoạ hồi lâu. Cuối cùng, ông đốt lên một ngọn đuốc sáng và mời danh hoạ nhìn thẳng vào gương mặt của ông… Leonardo da Vinci ngạc nhiên vô cùng, bởi vì người đàn ông này cũng chính là người đã làm mẫu cho ông vẽ chân dung Chúa Giêsu. Cũng khuôn mặt đó, nhưng có lúc Leonardo da Vinci nhìn thấy những đường nét của Chúa Giêsu, vào lúc khác, ông lại thấy nó xấu xí như gương mặt của Giuđa.
Chúng ta thường nói: khi yêu thì trái ấu cũng tròn… Trong một lá thư tình nào đó, có lẽ hai người yêu nhau sẽ nói với nhau: không có anh, không có em, đất trời như vô nghĩa… Tình yêu có tính sáng tạo. Tình yêu giúp chúng ta chỉ nhìn thấy cái hay cái đẹp nơi người mình yêu.
Tin và yêu là hai động tác gắn liền với nhau. Ngôn ngữ của đức tin không thể là ngôn ngữ của khoa học. Con người không đến với Thiên Chúa sau một thời gian dài tìm kiếm, lý luận. Con người chỉ đến với Thiên Chúa bằng tình yêu. Nói đến tình yêu là nói đến tin tưởng và phó thác.
Tomas đã đến với Chúa Giêsu phục sinh bằng sự lý luận, uyên bác của một nhà khoa học. “Nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh và vào cạnh sườn của ngài… Tôi không tin”. Thái độ này rất phù hợp với tinh thần khoa học. Trong công cuộc nghiên cứu khoa học, người ta quan sát, đưa ra giả thuyết, kiểm chứng, thí nghiệm rồi đi đến kết luận… Phương pháp này hoàn toàn vộ giá trị trong tình yêu. Không ai quan sát một người nào đó, đưa ra một giả thuyết, rồi mới đi đến một kết luận: yêu hay không yêu. Mà trái lại, tình yêu đến trước tất cả những lý luận và tìm tòi của chúng ta… Trong đức tin cũng thế, Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Ngài mời gọi chúng ta đi vào tình yêu của Ngài.
Tình yêu đó mời gọi chúng ta vượt lên trên tất cả những lý luận và ngờ vực của chúng ta. Tình yêu đó giúp chúng ta khám phá ra vẻ đẹp và lòng nhân từ của Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, trong ánh mắt nụ cười của con người cũng như trong muôn màu sắc của thiên nhiên. Tình yêu đó giúp chúng ta nhìn thấy nơi gương mặt xấu xí của Giuđa những đường nét yêu thương của Chúa Giêsu. Tình yêu ấy cho chúng ta tìm thấy niềm vui trong những thất vọng, thua thiệt. Tình yêu ấy cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong những giờ phút trống rỗng vô nghĩa của cuộc sống.
3. ĐI MỘT NGÀY ĐÀNG, HỌC MỘT SÀNG KHÔN
Cách đây không lâu, một cặp thanh niên người Pháp đã đến Phi Luật Tân bằng xe đạp riêng của họ. Nước Phi là quốc gia thứ 31 họ dùng xe đạp để đi tham quan. Trong vòng 7 năm qua, họ đã không ngừng di chuyển một cách thích thú trên hầu hết các nước và đã học hỏi nhiều kinh nghiệm khác nhau. Họ đã bỏ ra 3 năm để đạp từ Pháp xuyên qua đến Thái Lan. Họ dành một năm làm việc trong các trại ty nạn dọc biên giới Thái, chín tháng để đi xuyên qua Trung Hoa lục địa, sáu tháng để tham quan Nhật Bản, Đại Hàn và Đài Loan.
Người con gái tên là Claude đã giải thích mục đích của cuộc mạo hiểm như sau: “Kể từ thời của Marco Polo, con người không ngừng đi thám hiểm thế giới với nhiều lý do và với nhiều phương tiện khác nhau. Trong thời đại du hành vũ trụ này, việc đi vòng quanh thế giới bằng những phương tiện thô thiển như xe đạp vẫn không ngừng thu hút nhiều người… Mạo hiểm như thế để giúp thay đổi cuộc sống của chúng tôi, để cũng trải qua một kinh nghiệm quá lớn lao”.
Cuộc mạo hiểm nào cũng thích thú và nguy hiểm. Clude kể lại rằng tại Thái Lan, họ đã bị hai tên cướp chặn đường hành hung. Tại Trung Đông, họ đã chứng kiến tận mắt cảnh chết chóc hằng ngày. Và nhất là tại Ấn Độ, sau khi đã trải qua nhiều tuần lễ tại một vài trại cùi, họ đã ghi lại trong cuốn sổ ghi niệm của các trung tâm này như sau: “Sau khi đã đến đây, chúng tôi cảm thấy không còn gì để than phiền trong cuộc sống này nữa”.
Có lẽ đó là kinh nghiệm lớn lao nhất mà những người trẻ này đã cảm nhận được trong cuộc sống. Chạm trán với bao nguy hiểm, sờ được từng nỗi đau khổ, cảm nghiệm được niềm vui của từng dân tộc khác nhau… Tất cả những kinh nghiệm ấy cho họ thấy rằng: người ta có thể vượt qua được tất cả mọi hàng rào ngăn cách để đến với nhau và nơi nào con người cảm thấy mình đang sống trong gia đình, thì đó là nhà của họ, là quê hương của họ.
Đời là một chuyến đi… Không những đi một ngày đàng, học một sàng khôn, mà đi để tiến gần đến mục đích của cuộc sống.
Tổ phụ Abraham đã được Chúa gọi để bỏ quê hương, bỏ tất cả mọi sự và lên đường đến một nơi vô định. Dân Do Thái đã được chúa mời gọi rời bỏ Ai Cập để tiến về đất Hứa.
Ra đi là chết trong lòng một ít. Cuộc ra đi nào cũng đòi hỏi con người phải dứt khoát, có khi phải từ bỏ những gì mình yêu thích nhất trong cuộc đời. Abraham đã từ bỏ quê hương. Có gì quí giá và thân yêu bằng nơi chôn nhau cắt rún… Tiên tri Êlisê đã phải giết bò và dùng cày để nướng thịt bò trước khi lên đường theo tiên tri Êlia… Các môn đệ của Chúa Giêsu đã bỏ nghề nghiệp vợ con, tất cả mọi sự để lưu lạc nay đây mai đó với chúa Giêsu. Cuộc ra đi nào cũng là một mất mát… Nhưng có mất mát mới tìm lại được những gì quí hoá hơn.
giáo Hội đã được định nghĩa như dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian hướng về thiên quốc. Mỗi người Kitô được mời gọi để tham dự vào cuộc lữ hành này.
Họ không thể trẩy đi cô độc một mình. Nhưng bên cạnh họ, từng đoàn người cùng tiến bước trong hân hoan. Người ta không tiến bước trong buồn bã bởi vì đích điểm đang chờ đợi họ là cả một khung trời của an vui, hạnh phúc… Cuộc lữ hành nào cũng đầy cam go. Nhưng người Kitô không tiến bước với đôi tay trơ trọi. Hành trang của họ chính là sức sống mà Đức Kitô hằng thông ban cho họ. Cũng giống như người Do Thái trên đường trở về đất Hứa luôn được nuôi dưỡng bằng Manna và được hướng dẫn bởi cột lửa giữa đêm thâu, người Kitô cũng tiến bước bằng sức mạnh của Chúa Kitô.
4. NGƯỜI TA SAO, TÔI VẬY!
Theo khuynh hướng tự nhiên, có lẽ ai trong chúng ta cũng thích dẫn theo đám đông để hành động.
Chúng ta hãy thử quan sát sự đi lại trong các thành phố. Cũng như xe cộ, khách bộ hành cũng phải tuân theo đèn xanh, đèn đỏ. Những buổi chiều khi tan sở, người ta thường thấy xe cộ nối đuôi nhau ở các ngã tư. Đối lại với một chuỗi dài của những xe cộ, người ta cũng thấy lố nhố cả một đoàn người đang chờ đèn xanh để qua đường.
Quan sát cho kỹ, thỉnh thoảng người ta thấy một điều rất buồn cười, nhưng cũng rất bình thường: nếu có một người trong đám bộ hành này, vội vàng vì công việc hoặc không đủ kiên nhẫn, đã lợi dụng lúc vắng xe để băng qua đường bất chấp đèn đỏ, thì lúc đó, một số người trong đám đứng đợi cũng sẽ làm theo, nghĩa là cũng sẽ băng qua đường ngay giữa lúc đèn còn đỏ… Những người đi theo này có lẽ không nhìn thấy những dấu hiệu của luật lệ đi đường, mà chỉ làm theo người khác. Đối với những người này, dấu hiệu để băng qua đường không phải là đèn xanh, mà là gương của người khác.
trong cuộc sống hằng ngày cũng thế, nhiều người trong chúng ta có lẽ không hành động, không cư xử theo những dấu hiệu, theo những chỉ dẫn của chân lý,mà có lẽ theo gương kẻ khác nhiều hơn. Người ta làm sao, tôi làm vậy! Đó là lý luận thông thường của chúng ta. Như thế, người vượt đèn đỏ để băng qua đường không chỉ làm một hành động cá nhân cho riêng mình, mà còn trở thành dấu hiệu để cho không biết bao nhiêu người làm theo.
Không ai có thể tự phụ sống cho riêng mình mà hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến người khác. Bằng lời nói hay hành động, tất cả mọi hành xử của chúng ta đều gây một chấn động nào đó với người khác. Một cách nào đó, chúng ta không sống như một hòn đảo, mà là một dấu hiệu đối với người khác.
Riêng với những môn đệ của Đức Kitô, thì vai trò dấu hiệu ấy càng hiển nhiên hơn. Thật thế, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Các con là muối đất, các con là ánh sáng thế gian”.
Riêng với những môn đệ của Đức Kitô, thì vai trò dấu hiệu ấy càng hiển nhiên hơn. Thật thế, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Các con là muối đất, các con là ánh sáng thế gian”.
Ước gì cuộc sống chứng tá của bác ái, của nhẫn nhục, của tha thứ, của quảng đại, của phục vụ và của sự cần kiệm liêm chính mà người Kitô luôn phải thể hiện, có sức trở thành dấu hiệu của chân lý, của sự sống. Và để có thể trở thành dấu hiệu cho người khác, người Kitô cần phải luôn hướng nhìn về Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Sống theo Ngài, cư xử như ngài, người Kitô cũng sẽ lôi cuốn nhiều người đến với Ngài.
5. BỎ MỌI SỰ ĐỂ THEO CHÚA
“Bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa”, lời kêu gòi này của chúa Giêsu có thể thực hiện được trong xã hội dư dật ngày nay không? như một dụ ngôn trong Phúc Âm, chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện sau đây của tiến sĩ Marcello Candia, người đã dâng cúng tất cả tài sản đây xây một bệnh viện giữa khu rừng già Amazone bên Ba Tây và sinh sống tại đó như một người dân nghèo.
“Khi còn ở bật trung học, tôi là thành phần của một nhóm trẻ sinh hoạt dưới sự hướng dẫn của một cha dòng Phanxicô. Chúng tôi thường đi thăm các gia đình nghèo tại ngoại ô Milano… Sự chú ý đến người nghèo đã làm nảy sinh ước muốn truyền giáo nơi tôi.
Một hôm thầy Cêciliô, người coi cổng nhà dòng đã nhờ tôi phát thức ăn cho những người nghèo… Trên tường nơi phòng ăn dành cho người nghèo có treo một tấm hình của cha Daniele Samarate, một vị thừa sai của dòng đã chết vì bệnh cùi sau một thời gian phục vụ người thổ dân tại một miền ở Ba Tây… Mỗi lần phát thức ăn cho người nghèo, tôi đều nhận ra hình ảnh đầy đau khổ của ngài. Dần dà, hình ảnh đó quên thuộc đến mỗi trong bất cứ người nghèo nào, tôi cũng nhận ra hình ảnh ấy… Từ đó, ước muốn phục vụ những người cùi đã nảy sinh trong tôi”.
Sau khi tốt nghiệp đại học, Marcello đã được cha gởi đi công cán tại nhiều nước nghèo trên thế giới. Trong dịp ghé thăm một vùng nghèo tại Amazone bên Ba Tây, Marcello đã trở về với quyết định bán hết tất cả tài sản và rút về đây để phục vụ người nghèo. với tài sản do gia đình để lại, Marcello đã xây cất một bệnh viện với 120 giường và được trang bị với đầy đủ dụng cụ của một trung tâm ý tế đa khoa.
Marcello đã giải thích về việc làm của mình như sau: “người ta nói với tôi rằng tốt hơn hãy giúp những người nghèo của xứ sở mình trước đã. Tôi xin trả lời rằng điều quan trọng là mỗi người chúng ta biết làm một chút gì cho những người đang đau khổ, bất cứ họ đang ở đâu… Niềm vui lớn nhất của tôi là thấy nhiều người, thụ động và cam chịu số phận, đã biết cởi mở”.
Sự trưởng thành của Giáo Hội được thể hiện qua ý thức mỗi lúc một sâu sắc của người giáo dân về vai trò của mình. Đã qua rồi cái thời mà ngời ta cho rằng Giáo Hội là chuyện của các Giám Mục, linh mục. Đã qua rồi cái thời mà người ta cho rằng nên thánh là chuyện của vị Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục và tu sĩ… Không ai chiếm giữ độc quyền để nên thánh một mình. Nên thánh là ơn gọi chung cho tất cả mọi người đã chịu phép rửa… Do đó, tất cả nhưng lời khuyên trong Phúc Âm đều có giá trị cho tất cả mọi người theo Chúa Kitô. “Hãy về bán hết mọi sự, phân phát cho người nghèo khó và trở lại với Ta”. Mệnh lệnh này không chỉ ngỏ với một số thành phần ưu tuyển trong dân Chúa, nhưng là lệnh truyền cho tất cả mọi người.
Chúng ta không được sống trong một xã hội dư dật. nghèo đói là một sự dữ mà Thiên Chúa không bao giờ muốn cho con người rơi vào. Tuy nhiên, bên cạnh sự nghèo đói cơm bánh, còn có một sự nghèo đói còn đáng khiếp sợ hơn, đó là: nghèo đói tình thương… Có biết bao người đang chờ một ít cơm thừa cá cặn từ bàn ăn của chúng ta? Có biết bao nhiêu người đang mong mỏi một nghĩa cử yêu thương của chúng ta?
thế giới cần được biến đổi không phải chỉ bằng của cải vật chất, nhưng bằng chính tình thương mà con người biết san sẻ với nhau. Sự san sẻ đó là: dù sống trong xã hội nào, dù trải qua hoàn cảnh nào, mọi người Kitô chúng ta đều có thể và phải làm được. VÀ đó cũng là bí quyết duy nhất để giúp chúng ta nên thánh.
6. KHÔNG MONG ĐỀN ĐÁP
Trên đường đi hành hương đến La Mecque, thủ đô của Hồi giáo, một tín đồ đã cải trang thành một người hành khất.
anh gặp một người thợ hớt tóc đang săn sóc cho một người giàu có. Nhưng lạ lùng thay, khi anh vừa mở miệng xin người thợ cắt tóc, cạo râu cho mình, thì người thợ này liền bỏ người giàu ngồi đó và tức khắc đến phục vụ cho anh. Và đáng phục hơn nữa là người thợ này đã không đòi hỏi bất cứ thù lao nào, trái lại ông còn cho anh một ít tiền để độ thân.
Cảm động vì lòng tót của ngời thợ hớt tóc, người tín đồ quyết định sẽ tặng cho ông tất cả số tiền anh sẽ xin được trong ngày.
Và ngày hôm đó, người tín đồ cải trang thành người ăn xin đã nhận được một túi vàng do một người khác hành hương giáu có trao tặng. Như đã hứa với lòng mình, người tín đồ quay trở lại tìm người thợ hớt tóc và trao tất cả gói vàng cho ông ta.
Nhưng, ngoài sự tưởng tượng của người tín đồ, người thợ hớt tóc vừa thấy cử chỉ của người khành khất đã nghiêm sắc mặt nói: “Xin lỗi, ông cho mình là người đạo đức ư? Ông không cảm thấy xấu hổ để trả công cho một nghĩa cử yêu thương sao?”.
Thì ra, người thợ hớt tóc đã không cạo râu cho một người hành khất để được trả công. Ông chỉ làm cử chỉ đó với tất cả yêu thương dành cho một người khốn khổ và ông không nghĩ rằng mình làm như thế để được đền đáp.
ngạn ngữ tiếng Latinh thường nói: tôi cho bạn, để bạn cho lại… Hoặc như người Việt Nam chúng ta cũng thường nói: có qua có lại mới toại lòng nhau.
Người ta dùng câu ngạn ngữ này để diên tả những đòi hỏi công bằng giữa con người với nhau. Tôi cho bạn để bạn cho lại. Tôi làm cho bạn để hy vọng bạn sẽ đền đáp lại… Trên bình diện xã hội và nhân bản, ý thức được sự qua lại này đã là một điều đáng kể trong các mối tương quan giữa người với người.
Tuy nhiên, chúng ta không thể áp dụng một thứ công bình như thế vào mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa.
Thiên Chúa không thi ân giáng phúc để chúng ta biết ơn, hay đền đáp lại. Thiên chúa cũng không căn cứ trên tài năng của từng người để ban phát ân huệ của ngài. Thiên Chúa không dùng cán cân công lý thông thường của loài người. Công lý của Ngài là công lý của tình thương. Người thợ của giờ thứ nhất không lãnh hơn người thợ thứ vào giờ cuối cùng… Nếu Thiên Chúa không thi ân giáng phúc tuỳ theo công nghiệp và tài năng của con người, thì con người cũng không thể nại đến công lao của mình để đòi hỏi một sự trả công tương xứng… Sau một công lao vất vả, có lẽ chúng ta chỉ có thể thốt lên: Lạy Chúa, chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng.
Lắm khi chúng ta vẫn còn đeo đuổi sự công bằng cộng trừ nhân chia của chúng ta đối với Chúa. Tôi sẽ đọc bao nhiêu kinh để xin được ơn này, ơn nọ. Tôi sẽ làm bao nhiêu hy sinh để cầu cho được một ơn đặc biệt… Lý luận như thế trong các việc lành phúc đức, chúng ta dễ dàng rơi vào một thứ biệt phái mới nhằm đề cao công nghiệp riêng của chúng ta mà quên rằng: tất cả những gì chúng ta có, tất cả những gì chúng ta đã và sẽ lãnh nhận được đều xuất từ tình yêu vô vị lợi của Chúa.
7. ĐÂU LÀ HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC
Seiji Katagire, một phi công Nhật Bản, đang trên cần lái của chiếc phản lực cơ DC 8 của hãng hàng không dân sự với với 174 hành khách trên tàu. Đang lúc anh chuẩn bị đáp xuống phi trường Đông Kinh, thì anh bỗng nghe được những âm thanh khủng khiếp báo hiệu một sự chết chóc rùng rợn. Do phản ứng tự nhiên, anh đã kéo giật cần lái, khiến cho chiếc máy bay đâm nhào cuống đất gây tử thương cho 24 hành khách và hàng trăm người bị thương.
Khi cuộc điều tra về tai nạn kết thúc thì anh được gởi ngay đến bệnh viện tâm thần. Các bác sĩ về khoa thần kinh họ cho rằng những tiếng kêu gào khủng khiếp mà viên phi công đã nghe được, xuất hiện ngay trong cơn ác mộng giữa lúc tỉnh táo của anh và đó chính là nguyên nhân gây ra tai nạn… Theo các bác sĩ tâm thần, ác mộng xảy ra trong tình trạng nửa tỉnh nửa mơ là dấu hiệu báo trước một cơn khủng hoảng tinh thần.
Theo những con số chính xác được tiết lộ từ các bệnh viện thần kinh tại Nhật Bản, thì số người mắc bệnh mất trí và thác loạn thần kinh đã gia tăng theo tỷ lệ thuận với sự phát triển kỹ thuật và kinh tế tại quốc gia này… Người dân Nhật nổi tiếng là cần cù siêng năng nhất thế giới. Từ em bé mới tập tễnh cắp sách đến trường đến một vị bộ trưởng trong chính phủ, tất cả mọi người đều bon chen và lấy sự phấn đấu làm phương châm của cuộc sống… Sự cố gắng đó vừa đưa nước Nhật đến chỗ phồn thịnh cũng vừa xô đẩy người dân đến tình trạng căng thẳng không ngừng. Một chút lơ đễnh có thể đưa đến thất bại, một chút sơ sót có thể đưa đến chỗ mất công ăn việc làm… Tự ái cá nhân và tự ái dân tộc khiến người Nhật không chịu đựng được sự thất bại. Một lần thi trượt có thể xô ngã không biết bao nhiêu học sinh Nhật đến chỗ tự vận.
Nhật Bản được coi là quốc gia giàu mạnh nhất Á châu và là nước có một trong những kỹ thuật khoa học cao nhất thế giới. Nhưng chúng ta hãy thử hỏi: liệu sự giàu có phồn thịnh đó có đem lại cho con người hạnh phúc hay không?
Hạnh phúc là một cái gì vô cùng tương đối… Nhà giàu dứt tay bằng ăn mày đổ ruột.
chúng ta hãy thử so sánh niềm vui của các trẻ em thuộc hai xã hội khác nhau. Trong một gia đình mà cơm trắng được coi như một thứ xa xí phẩm, thì chắc chắn một ổ bánh mì tây sẽ tạo ra cho các em bé trong gia đình nghèo một niềm vui lớn gấp nghìn lần niềm vui của những em bé suốt đời sống trên nhung lụa và ăn toàn cao lương mỹ vị.
Một chiếc áo mới mỗi năm chỉ được mặc một lần của em bé nhà nghèo có lẽ sẽ làm cho em bé đó vui hơn tất cả những em bé suốt đời chỉ biết có lụa là gấm vóc.
Của cải vật chất là một điều kiện cần thiết để cho con người được sống xứng với phẩm giá con người. Những phương tiện kỹ thuật giúp con người được phát triển nhiều hơn trong nhân cách. Sự sung túc về vật chất phải đem lại sự phát triển nhân bản và tinh thần. Có nhiều hơn để nên người nhiều hơn: đó là khẩu hiệu người ta thường đề ra để kêu gọi giúp đỡ các nước kém mở mang… Tuy nhiên, tự nó, của cải vật chất, sự giàu có, những phương tiện văn minh tiến bộ không phải là cùng đích của con người.
Người Kitô luôn thức tỉnh để đánh giá đúng những phương tiện vật chất họ đang sử dụng hay đang tìm cách để đắc thủ. Sự chạy đua với những phương tiện vật chất không nên làm họ mờ mắt, bán đứng lương tâm của mình.
Hạnh phúc duy nhất và thiết thực trong cuộc sống của người Kitô phải là chính Chúa. Có được hạnh phúc đó trong tâm hồn, chúng ta sẽ đánh giá đúng mức của cải vật chất và đồng thời sẽ tìm được hạnh phúc ngay trong những điều kiện thiếu thốn nhất của cuộc sống.
8. CUỐN SÁCH MỘT CHỮ
người ta kể chuyện rằng: Ngày kia một văn sĩ bỗng nảy ra một ý kiến ngộ nghĩnh. ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ đọc vỏn vẹn có một chữ.
Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ.
Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào mà viết được cuốn sách một chữ ấy?
Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng… Tất cả những danh từ trong thế giới, không đủ cung cấp tài liệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được tất cả những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là đẹp xinh, tất cả những gì là đáng quí chuộng, đáng yêu đương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.
chữ ấy là: Maria, tên của người trinh nữ đã được Thiên chúa tuyển chọn và điểm tô cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai nhập thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa thiên Chúa và nhân loại.
ngày hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng ngày chào đời của công trình tuyệt hảo ấy của Thiên Chúa. Hân hoan vì với tiếng khóc và nụ cười của em bé mang tên Maria này, vầng đông của lịch sử và chương trình cứu rỗi của toàn thể nhân loại đã ló dạng.
Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành goá phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.
cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:
– Chồng bà đã được cứu thoát. Quá ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta hỏi lại:
– Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy? Cha Vianney cắt nghĩa:
– Có chúa ở giữa chiếc cầu và giòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hoà với Ngài.
– Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại.
– Đó là một ơn của Đức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:
– Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đoá hoa đem chưng trước tựng Đức Mẹ ở bên đường. Đức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?
Mừng ngày sinh nhật của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp dân kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính Mẹ, như: lần hạt mân côi, đọc kinh truyền tin,nguyện kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy là những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có nghĩa là:miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Đức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.
9. CÁC THÁNH XUỐNG HOẢ NGỤC
Văn hào Guenter Eich, người Đức, có viết một vở kịch truyền thanh với nhan đề “Festiamus, người tử đạo”, đại ý câu chuyện như sau:
Festiamus là một con người lành thánh, đơn sơ hiếm có. Mặc dù sống giữa những người gian ác, chàng vẫn luôn cư xử đoan chính, giàu lòng thương đối với những người bần cùng.
Sau khi chết, chàng được lên thiên đàng. Ở đó, sau khi làm quen với các vị thánh, chàng đã bỏ ra mấy ngày liền để đi tìm kiếm cha mẹ, anh em và bạn hữu ngày xưa. Nhưng chàng không thấy ai. Thánh Phêrô cho biết: cha mẹ và bạn hữu chàng ngày xưa đã ăn ở gian ác, nên đã bị giam trong hoả ngục.
nghe đến đây, Festiamus buồn thiu, chàng liền thưa với thánh Phêrô: “Con không thể ở nơi đây được bao lâu còn có những người đang phải chịu đau khổ dưới đó”.
Chàng liền rời bỏ thiên đàng, xuống hoả ngục để thăm cha mẹ, bạn hữu và những người thân. Chàng làm điều đó với xác tín rằng: Khi một người vô tội từ trời cao, đến và sống với những người bị kết án, cùng chia sẻ với họ những đau khổ nhọc nhặn, thì người đó sẽ phá tung được địa ngục và vòng phong toả của quỷ ma…
Câu chuyện tưởng tượng trên đây phần nào muốn đề cao thiện chí của những người dám hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để chia sẻ số phận đau thương của những người khác.
Đó là tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa đã từ trời cao xuống trần trong thân phận nghèo hèn nhất. Ngài sinh ra trong chuồng bò để cảm thông với nỗi cơ cực nghèo nàn của những kẻ không nhà không cửa.
Thiên Chúa từ trời cao không muốn ban xá lệnh, ban ơn tha thứ cho tội nhân, mà trái lại đã thân hành đến ngồi đồng bàn với từng tội nhân. Thiên Chúa không thể hiện sự cảm thông bằng lời nói suông, mà bằng cả cuộc sống làm người…
Người Việt nam nào dường như cũng đang sống trong địa ngục của thiếu thốn và nghèo khổ. Không cần phải đi tìm kiếm, ai trong chúng ta cũng đã cảm nghiệm được thế nào là cơ cực, bần cùng. Ai sẽ biến cảnh khốn cùng ấy trở thành thiên đàng của tình thương? Mỗi người một ít, nếu ai cụng ra khỏi nỗi khổ của mình và gom góp lại đóm lửa của yêu thương, chia sẻ, cảm thông, chúng ta sẽ xoa dịu được phần nào nỗi khổ đau chung mà chúng ta đang trải qua…
10. QUÀ TẶNG QUÍ GIÁ NHẤT
Trong một góc hè phố, một bác hành khất tê bại nằm co quắp. Chợt có một người đàn ông ăn mặc bảnh bao đi qua. Người hành khất bèn mở miệng xin bố thí. người đàn ông ăn mặc sang trọng xỏ tay vào túi áo, nhưng ông tìm mãi mà chẳng được gì. Vừa bối rối vừa thành kính, ông ta mới phân bua với người hành khất:
“Này bác, tôi muốn biếu bác chút đỉnh, nhưng rất tiếc, vì đi bất ngờ nên tôi không có mang tiền theo. Xin bác thông cảm cho”.
Người hành khất mới trả lời: “Cám ơn ông. Ông đã cho tôi nhiều hơn mọi của bố thí. Bởi vì ông đã gọi tôi là Bác. Chưa bao giờ trong đời tôi, tôi đã nhận được danh dự đó trên môi miệng của một người sang trọng nào cả”.
dù là một ngươi hành khất, dù là một người tàn tật, dù là một người bị xã hội ruồng rẫy bỏ rơi, tất cả mọi người đều có một phẩm giá như nhau. Quà tặng quí giá nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho người khác, chính là tôn trọng người đó với tất cả phẩm giá cao quí nhất của họ.
11. THUỐC GIÃ RƯỢU
Cách đây vài năm, công ty dược phẩm Hoffman La Roche ở Thuỵ Sĩ đã tình cờ khám phá ra một loại thuốc có tính chất làm giã rượu. Các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm của công ty đã đem loại thuốc mới này thí nghiệm trên các chú chuột đang say luý tuý. Như thuốc tiên, mấy chú chuột đang say bỗng trở nên tỉnh táo hẳn lại.
Nhiều người nghiện rượu có lẽ đã mừng thầm với phát minh mới này. Nhưng mọi người đều sửng sốt khi một nhà nghiên cứu của công ty nói trên đã đề nghị huỷ bỏ loại thuốc mới này. Ông giải thích như sau: “Xã hội sẽ tốt hơn nếu không có loại thuốc này. Bởi vì loại thuốc này sẽ khuyến khích người say uống nhiều hơn. Những người dùng thuốc này sẻ có cảm giác là họ không bao giờ bị đốn ngã vì chất men… Thật ra, loại thuốc này có đặc tính làm cho giã rượu, chứ không làm bớt lượng rượu trong máu cũng như những tác hại khác trong hệ thống thần kinh và trong các bộ phận khác”.
Loại thuốc giã rượu trên đây có thể làm cho chúng ta nghĩ đến thứ bình an giả tạo mà nhiều người đang đi tìm.
Thiên Chúa đã dựng nên con người để sống trong bình an với Ngài. Những buổi chiều tà khi Thiên Chúa đến trong vường Địa Đàng để chuyện vãn với Ađam và Evà: đó là hình ảnh của một sự kết hiệp thâm sâu giữa con người và Thiên Chúa. Thế nhưng, con người đã chối bỏ Thiên Chúa và đã cắt đứt mối dây chân thành ấy… Từ đó, bất an đã trở thành số phận thường tình của con người.
Nhưng bất an không những chỉ là một trừng phạt, bất an là nỗi khao khát mà Thiên chúa đã đặt vào lòng người để giúp con người tìm đường quay lại với Ngài…
Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù sống trong xã hội nào, dường như không ai thoát khỏi cái lo, cái sợ… Nếu những người Việt Nam đói khổ lo sợ cho ngày mai không cơm, không áo, thì những người Âu Mỹ dư dật lại lo sợ trước trăm nghìn cái đe doạ khác của cuộc sống… Dĩ nhiên, không ai có thể so sánh được đau khổ của một người nghèo đói, mất tự do với sự bất an của những người giàu có. Nhưng trong cơ bản, nỗi khổ tâm và bất an nào cũng có một sức nặng riêng của nó. Dường như mỗi người đều có một thập giá, một nỗi khổ và một ưu tư tỷ lệ với sức lực của mình…
chúa Giêsu kêu mời mọi người chúng ta hãy đặt tất cả tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Dù có lo lắng đến đâu, chúng ta cụng không thể làm cho mình cao hơn một chút. Mỗi người có nỗi khổ riêng của mình và mỗi ngày có nỗi khổ của ngày đó…
12. BỨC TRANH ĐỜI NGƯỜI
Một hoạ sĩ vô danh nọ vào thời Trung cổ đã tóm tắt đời người thành 4 bức tranh xếp bên cạnh nhau. Bức tranh thứ nhất hoạ lại tuổi thơ. Không gì đẹp và thanh thản cho bằng tuổi thơ. Một em bé hồn nhiên, vô tư ngồi trên một chiếc ghe buồm vừa nhổ neo ra khỏi bờ… Em bé nhìn theo sóng nước không chút sợ hãi bởi vì người đang cầm bánh lại là một thiên thần. Bóng đen đang ngủ một cách dịu hiền đàng sau bánh lái.
Sang đến bức tranh thứ hai, người ta bỗng thấy cậu bé trở thành một trang thiếu niên đang đứng nhìn chân trời xa tấp với nỗi háo hức trước những điều mới lạ… Vị thiên thần vẫn còn cầm tay lái, nhưng sóng đã bạt đầu và bóng đen đã thức giấc.
Bức tranh thứ ba là cảnh tuổi trưởng thành. Bầu trời đã trở nên ảm đạm. Sóng gió ập phủ tư bề. Bánh lại đã nằm trong tay của bóng đen. Vị thiên thần đã bị trói chặt trong một góc. Người đàn ông đã phải dùng tất cả sức lực của mình để chiến đấu, để chiếc ghe không bị lật úp…
Cuối cùng, trong bức tranh thứ tư, người ta thấy một cụ già đang ngồi ung dung giữa nghe. Sóng yên, gió lặng, mặt trời xuất hiện trở lại. Vị thiên thần đã dành lại được bánh lái, còn bóng đen thì bị trói chặt đàng sau.
Đời là một cuộc hải trình gay go… Đích điểm có thể là bến yên hàn mà cũng có thể là vực thẳm của chết chóc. Đến nơi yên hàn hay đứt gánh giữa đường: số mệnh ấy không ai có thể định đoạt cho ta, mà chỉ có mỗi người phải biết làm chủ, lèo lái con thuyền của mình…
Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã quá quen thuộc với trò chơi “thiên đàng hoả ngục” mà các em bé thường tụ tập trước sân thánh đường để cùng biểu diễn… Thiên đàng hoả ngục hai bên, ai khéo thì nhờ ai vụng thì sa… Trả lời được một số câu hỏi thì được vào thiên đàng, trả lời không được thì bị chận lại ngoài cửa.
Trò chơi đơn sơ nhưng cũng có tác dụng gieo và đầu chúng ta một hình ảnh về cuộc đời. Đời là một cuộc ra đi. Hướng đi của cuộc đời tuỳ thuộc ở sự định đoạt của mỗi người. Con đường dẫn đến hư đốn luôn rộng thênh thang. Con đường dẫn đến sự sống là một con đường chật hẹp, đòi hỏi nhiều chiến đấu…
sự thánh thiện là một ơn Chúa ban, nhưng phải mất nhiều lao nhọc, vất vả chiến đấu, con người mới đạt được. Nói đến chiến đấu là nói đến kẻ thù. Con sư tử lượn quanh tìm mối cắn xé trong cuộc sống của chúng ta là không biết bao nhiêu cạm bẫy giăng mắc trên lối đi của chúng ta. Những cạm bẫy đó từ bên ngoài cũng có, nhưng hầu hết đều xuất phát từ trong tâm hồn chúng ta…. Đó là những dục vọng, đam mê đang cày xéo tâm hồn chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta đánh bại được kẻ nội thù ấy và biến chúng thành đạo binh trung thành thì lúc đó chúng ta mới chiến thắng được kẻ thù đến từ bên ngoài…
Khí giới tiên quyết và chủ yếu giúp chúng ta chiến thắng được nội thù đó là sự cầu nguyện. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của ngài: chỉ có ăn chay và cầu nguyện các con mới có thể chiến thắng được loài quỷ này…
13. BỘ LÔNG CHỒN
Tại những khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loài chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.
Những người thợ săn Âu châu biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu cuộc săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiểm và ngay cả sự chết, hơn là để thân thể hoá ra hoen ố…
Đối với giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quí hơn cả mạng sống: chúng sẵn sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.
Cuộc sông của người Kitô chúng ta cũng phải như thế. Được tái sinh trong Đức Kitô phục sinh, mỗi người Kitô chúng ta được khoát lên một chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, nhơ lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta chịu phép Rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa…
Cuộc sống nào cũng có chiến đấu. Cạm bẫy giăng mắc đầy các lối đi của chúng ta. Người Kitô không vì một chút lợi lộc, một chút an toàn giả hiệu để làm hoen ố chiếc áo tâm hồn của mình.
14. QUYỂN SÁCH CAO SIÊU NHẤT
Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống:
có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gởi đến cho mình một thập giá quá nặng… Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó tự do chọn lựa.
Người đó hâm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận”.
Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng… Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy”. Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng”.
Hôm nay lễ suy tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: “Thập giá là quyền sách cao siêu nhất… Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thực sự là người thông thái”.
thập giá Chúa Giêsu là quyền sách cao siêu nhất, bởi vì đó là dấu chứng cao cả nhất của tình yêu. “Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu”. Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất mà con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của tình yêu: tình yêu vâng phục đối với chúa Cha và tình yêu dâng hiến cho nhân loại…
Suy tôn Thánh Giá Chúa,l chúng ta hay cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào mầu nhiệm tình yêu của chúa. Trong mầu nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của tình yêu.
15. ĐÂY SẼ LÀ NIỀM AN ỦI CỦA CON
Một trong những hình ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.
Người ta kể về một người đàn bà đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẩu là vì còn hy vọng sống cho cậu con trai. Khi người ta bắt đầu cuộc giải phẫu,k bà yêu cầu cho con trai được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: “Lạy Chúa tôi”. chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buộc miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: “Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Đấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ”. Nói xong, bá ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: “Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Đây sẽ là niềm an ủi của con”.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Đức Mẹ đau khổ hay cũng thường được gọi là bảy sự thương khó của Đức Mẹ.
Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào b ằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng chính là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng. Từ lúc cưu mang Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để suy niệm cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình đức tin.
16. SỐNG LÀ MỘT CUỘC CHẠY ĐUA
Vào khoảng cuối tháng tư năm 1989, một cuộc chạy việt dã gây quỹ cho thế giới đệ tâm đã được tổ chức tại 300 thành phố bên Pháp quốc. Cuộc chạy bộ này đã do tổ chức có tên là chống đói và giúp phát triển thuộc giáo Hội Pháp đề xướng, và với sự hỗi trợ của Bộ Thanh niên và Thể thao.
Từ năm 1968 đến nay, hằng năm, tổ chức chống đói và trợ giúp phát triển phát động những chiến dịch tương tự để gây ý thức nơi giới trẻ về những vấn đề phát triển trên thế giới, nhất là tại các nước nghèo.
Trong cuộc chạy việt dã nói trên, các bạn trẻ mang theo trong người những tấm vé số mà họ sẽ bán cho ngời lớn. Trung bình, cứ mỗi cây số chạy được,mỗi bạn trẻ bán một vé số. Mỗi một vé số trị giá gần hai Mỹ kim. Theo dự tính, tổng số cây số mà các bạn trẻ sẽ chạy được lên đến 120.000 cây số, nghĩa là tương đương với một vòng của thế giới đệ tam.
số tiền thu được sẽ trao cho tổ chức chống đói và trợ giúp phát triển để tài trợ cho hai dự án phát triển tại Colombia: một dự án nhằm tái định cư những nạn nhân của vụ núi lửa tại Armero cách đây hai năm, và một dự án khác nhằm thiết lập những vườn trẻ tại thủ đô Bogota.
Nhiều bạn trẻ thuộc các phong trào công giáo tiến hành, các nhóm học giáo lý, các học sinh tại các trường công giáo đã hăng say tham gia vào chiến dịch nói trên.
Trong cuộc sống tại các nước tân tiến ngày nay, ai cũng thắm thía với câu ngạn ngữ: sống là một cuộc chạy đua! Buổi sáng, người ta chen lấn nhau để lên xe chạy đến sở làm; buổi chiều, người ta giành giựt nhau một chỗ trên xe để về nhà sớm. Hằng tháng, người ta phải chạy đua với sự leo thang của vật giá. Và dĩ nhiên, những tiện nghi mỗi ngày một mới mẻ cũng khiến cho con người chạy bở hơi tai.
Cuộc chạy đua nào cũng đưa lại mệt mỏi. Nhưng mệt mỏi hơn cả đó là cuộc chạy đua trong đó con người không biết mình sẽ đi về đâu… Đó là hình ảnh của một cuộc sống không có mục đích.
Thánh Phaolô đã so sánh cuộc sống của người Kitô với một cuộc chạy đua. Người Kitô cũng cảm nghiệm được những nhọc mệt trong lộ trình, nhưng họ luôn kiên trì vì biết chắc đích điểm và phần thưởng đang chờ đợi họ.
Người Kitô cũng kiên trì chạy đua, bởi vì họ không chạy lẻ loi trong cuộc sống, nhưng họ biết rằng bên cạnh họ, còn có những người anh em cùng chung sức với họ… Một vòng tay, một nụ cười, một cử chỉ thân ái, một hành động tương trợ: bao nhiêu cử chỉ là bấy nhiêu nâng đỡ cho người Kitô trong cuộc hành trình của họ và cũng là bấy nhiêu ánh sáng soi dẫn trong cuộc chạy đua của họ.
17. LỜI NÓI KHÔNG MẤT TIỀN MUA
Mahatma Gandhi, người đề xướng chủ trương tranh đấu bất bạo động, đến Phi Châu. Ông vào dùng bữa trong một quán ăn bình dân. Sau khi dùng bữa, ông trả tiền và nói với người giúp bàn: “Xin cám ơn vì sự tử tế của anh”. Người gúp bàn trả lời: “thưa ngài, tôi sẽ không bao giờ quên ngài. Từ 25 năm phục vụ ở đây, tôi chưa bao giờ nghe được một tiếng cám ơn”.
“Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Một tiếng cám ơn, một lời chào hỏi, nếu được thực thi với tất cả chân tình là một biểu lộ của một lòng tin sâu sắc. Nói một tiếng cám ơn, biểu lộ một cử chỉ thân thiện với người khác là muốn nói lên tình liên đới giữa con người là một điều thiết yếu và ta cần có người chung quanh để sống với.Nói một tiếng cắm ơn với người nào đó là khẳng định giá trị và nhân phẩm của người đó. Nhưng ở đời, có ai mà không cho ta một món quà hay không dạy ta bất cứ bài học nào đó.
18. NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT CỦA SÁM HỐI
Người Hồi giáo thường nói đến ý nghĩa và giá trị của lòng sám hối qua câu chuyện tưởng tượng như sau:
Một hôm Allah, Đấng Khôn Ngoan, truyền cho một sứ thần xuống trần gian để tìm cho được điều tốt đẹp nhất và mang về thiên quốc.
Vị sứ thần đáp ngay xuống một trận chiến nơi máu của những vị anh hùng đang chảy lai láng. Vị sứ thần thu nhặt một ít máu và mang về trình cho Đấng Allah. Nhưng Đấng Allah xem ra không hài lòng mấy. Ngài nói: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quí giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất dưới trần gian”.
Vị sứ thần đành phải giáng trần một lần nữa. Lần này, ngài gặp ngay một đám tang của một người giàu có, nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo đàng sau quan tại, vừa đi vừa khóc lóc, vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Vị sứ thần bèn thu nhặt hương thơm ngào ngạt và mang về trời. Lần này, Đấng Allah mỉm cười đón lấy mùi thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “Dĩ nhiên, lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng ta nghĩ rằng còn có một cái gì khác tốt đẹp hơn”.
lại một lần nữa, vị sứ thần đành phải vâng lệnh Allah để trở lại trần gian. Phải mất một thời gian lâu, sau khi đã đi rao khắp bốn phương, vị sứ thần mới tìm được điều mong mỏi. Một buổi chiều nó, ngồi nghỉ mệt bên vệ đường, ngài bỗng thấy một người đàn ông ngồi bên cạnh khóc sướt mướt. Vị sứ thần được người đàn ông giải thích như sau: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ để phạm tội… Giờ đây, nước mắt là cơm bữa từng ngày của tôi”. Vị sứ thần bèn đưa tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và vội vã bay về trời. Đấng Allah nhìn thật lâu vào những giọt nước mắt và mỉm cười nói với vị sứ thần:
“Thế là người đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian, không có gì đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, người đã thấy đó, trước khi vui mừng, Ta đã nhìn thật kỹ xuyên qua những giọt nước mắt. M<ột lòng sám hối giả dối không có ích lợi gì cả. Một sự sám hối thành thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân của tình yêu”.
Trong Tin Mừng theo thánh Luca ở đoạn 15 câu 7, Chúa Giêsu đã nói: “Trên trời sẽ vui mừng gấp bội khi có một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công chính không ăn năn hối cải”.
Vinh quang của Thiên Chúa, niềm vui của Thiên Chúa chính là con người được sống. VÀ sự sung mãn, sự sống đích thực chính là ân sủng, là sự sống của Thiên Chúa trong tâm hồn con người. Sự sống ấy chỉ có thể đến trong tâm hồn con người, nếu con người biết mở rộng cửa tâm hồn để đón nhận Thiên Chúa… Những giọt nước mắt sám hối chính là sức đẩy để mở tung cánh cửa tâm hồn vậy.
19. ÔI LẠY ĐẤNG TỐI CAO
Để nói lên tình yêu vô biên và mầu nhiệm của Thiên Chúa, người Hồi giáo thường kể câu chuyện sau đây
Một hôm, Đấng Allah cho gọi một thiên sứ đến và sai xuống trần gian. Ngài truyền lệnh cho vị thiên sứ như sau: “ngươi hãy xuống trần gian và đưa vê đây người đàn bà goá có 4 đứa con thơ”.
Vị thiên sứ ra đi. ngài gặp ngay người đàn bà goá đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài hết nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, lại ngước mắt lên nhìn về Đấng Allah như xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm để tách biệt người mẹ với những đứa con thơ còn lai… Nhưng ánh mắt van xin của vị sứ thần đã không mảy may đánh động được Đấng Allah. Cuối cùng, vị sứ thần đành phải vâng lệnh Đấng Allah để cướp lấy người đàn bà khỏi đám con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị sứ thần không thể vui được. Vơi thế nào được trước cảnh chia cách giữa mẹ và con. Thấy vị sứ thần buồn bã, Đấng Allah mới cho gọi ngài lại và đưa ngài vào giữa sa mạc. Đấng Allah chỉ cho vị sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo ngài hãy đập vỡ nó ra…
Tảng đá vỡ ra, vị sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong đó, một con sâu nhỏ từ từ bò ra… Hiểu được ý nghĩa của cử chỉ ấy, vị sứ thần thốt lên: “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được bốn đứa bé mố côi là con cái của Ngài”.
Đâu là hình ảnh cúng ta có về Chúa? Ngài là Thiên Chúa từ nhân, luôn tha thứ, Ngài là Người Cha nhân hậu luôn yêu thương săn sóc cho từng đứa con, hay trái lại, Ngài chỉ là một ông thần độc ác mà vì sợ hãi chúng ta phải chạy đến để khỏi bị trừng phạt…
Trở về với Thiên Chúa, trước tiên là gạt bỏ ra khỏi tâm hồn chúng ta hình ảnh bất xứng mà chúng ta gán cho Chúa. hãy phục hồi lại trong tâm hồn chúng ta hình ảnh của một Thiên Chúa mà Tin Mừng đã mạc khải cho chúng ta: đó là một người Cha luôn yêu thương và không ngừng tha thứ cho chúng ta, một người Cha mà tình thương vượt hẳn những tính toán cân lường của trí khôn loài người chúng ta…
Có những lúc chúng ta cảm thấy tội lỗi đang đè nặng trong tâm tư ư? hãy mau mắn chạy đến với Ngài.
Có những lúc đau khổ, mất mát che phủ khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Ngài ư? Hãy tin tưởng rằng, Ngài đang nhìn thấy và cảm thông với từng nỗi khốn khổ của chúng ta và tình yêu nhiệm mầu của Ngài luôn nhào nặn để biến những đắng cay chua xót ấy thành ân phúc cho chúng ta.
20. BỞI VÌ TÔI RẤT YÊU MẾN BÀ!
Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêxa thành Calcutta tiến lại gần một người mà người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một lão bà. Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách,k nước da đen đầy những vết thương hối thối. Mẹ Têrêxa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn bà đáng thương này đang hấp hối… có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén canh nóng và tràn đầy tình thương yêu.
Người đàn bà đáng thương ấy sửng sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêxa bằng một giọng thều thào:
– Tại sao bà lại làm như vậy?
Mẹ Têrêxa trả lời:
– Bởi vì tôi rất yêu mến bà…
Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất từ tận đáy lòng đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu xuất hiện.
– Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!
– Tôi rất yêu mến bà. Mẹ Têrêxa lặp lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.
– Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà.
Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêxa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt vời nhất trên cõi đời…
Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêxa đã biết cách nhìn sự suy sụp của tình người, Mẹ đã biết khám phá ra cái thực thể thiêng liêng mầu nhiệm của những con người nghèo hèn xấu số nhất. Chúng ta cũng hãy luôn nhìn mọi người bằng chính cái nhìn yêu thương và tôn trọng của chính Chúa đối với mọi người.
21. VỊ THÁNH LÀ AI?
Ngày kia một em bé được theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai người phải đi ngang qua một thánh đường nguy nga, to lớn. Em bé ngước mắt nhìn thánh đường, chợt em giơ tay chỉ cho mẹ và nói: “Mẹ xem kìa, những cửa kiếng màu bị đóng đầy bụi, xem thật dơ bẩn và không đẹp tí nào”.
Bà mẹ không nói không rằng về nhận xét của con, nhưng tiếp tục nắm lấy tay dẫn em bé tiến vào bên trong nhà thờ. Tại đây, những cửa kiếng bên ngoài xem ra dơ bẩn, xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc lộng lẫy.
Em bé ngạc nhiên mở to đôi mắt nhìn những cửa kiếng màu diễn tả nhiều hình ảnh đẹp mắt. Bỗng mắt em dừng lại ở cửa kiếng sau bàn thờ diễn tả thình của 4 thánh sử viết Phúc Âm trong lúc ánh sáng mặt trời đang chiếu dọi qua. Em bé hỏi mẹ đó là những thánh nào và được mẹ giải thích vắn tắt về từng vị thánh.
Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ giáo lý viên hỏi các em: “Này, trong các em có ai trả lời được: một vị thánh là ai?”. Trước một câu hỏi có vẻ không có ý nghĩa, cả lớp giáo lý thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào bên trong nhà thờ để nhìn ngắm các cửa kiếng giơ tay xin trả lời. Em nói: “Vị thánh là một người để cho ánh sáng mặt trời chiếu thấu qua”.
Kinh nghiệm và câu trả lời của em bé trên có lẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần nào về cuộc đời của thánh Matthêu vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, trước và sau khi được Đức Giêsu kêu gọi, như được chính thánh nhân vắn tắt thuật lại như sau: Đi khỏi đấy, Đức Giêsu thấy một người ngồi ở bàn thâu thuế, tên là Matthêu. Chúa bảo ông rằng: “Hãy theo Ta”. Ông Matthêu liền đứng dậy và đi theo Chúa.
Một tiếng gọi và một hành động đáp trả được diễn tả vắn gọn trong những dòng trên đây có thể nói được chỉ là bề mặt của trận chiến nội tâm diên ra từ lâu nơi ông Matthêu. Một trận chiến giằng co để suy tính thiệt hơn, để cân nhắc cái lợi và cái bất lợi, để đắn đo những cái mình phải mất với những cái mình sẽ đạt được, khi ông bỏ mọi sự để theo Chúa:
– Ông phải mất một nghề hái ra bạc nhưng tìm được một số mệnh và sứ mệnh thật sự có giá trị vĩnh viễn.
– Ông phải mất một gia tài to lớn nhưng tìm lại được danh dự.
– Ông phải mất sự bảo đảm xây dựng trên của cải vật chất để đi theo Đức Giêsu trong một cuộc hành trình dẫn đến sự sống mà trước đó ông chưa bao giờ mơ ước.
Về phần Đức Giêsu, khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một ngươi hành nghề thâu thuế, bị các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo cho giặc, bốc lột đồng bào để làm lợi cho quân ngoại xâm, cũng như bị lên án là kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội lỗi, Đức Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng Ngài nhìn sâu thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã lấy ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ của Thiên Chúa để chiếu sáng và chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một người thâu thuế thành một tông đồ và một thánh sử viết Phúc Âm.
22. NGƯỜI LÍNH MÙ
Tại nhà ga Verona, bên Italia năm 1945, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức quốc xã. Sự xuất hiện của chuyến xe lửa đã khơi dậy những tiếng reo vui tưởng chừng như không bao giờ dứt.
từ trên xe lửa những tấm thân tiều tuỵ bắt đầu bước xuống sân ga giữa tiếng cười pha lẫn tiếng khóc của người thân. Cuối cùng, một người lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ từ tiến về phía một người đàn bà già yếu và chỉ đủ sức để thốt lên tiếng”Mẹ”. hai mẹ con ôm chầm lấy nhau… Người mẹ già xót xa: “Làm sao một người mù như con lại có thể tìm đến với mẹ?”. Người lính mù ấy đáp: “Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ bằng đôi mắt, nhưng trái tim con đã hướng dẫn con”.
Người ta không chỉ thấy bằng đôi mắt, nhưng còn bằng chính tâm hồn của mình. Người ta không những chỉ hiểu biết bằng lý trí, nhưng còn bằng con tim của mình nữa.
Chúng ta không những hiểu được thế giới và con người bằng trí khôn của mình, nhưng còn bằng chính đức tin nữa. Với ánh sáng đức tin, chúng ta đi vào mầu nhiệm của sự vật bằng chính sự hiểu biết của Thiên Chúa. Hãy để cho ánh sáng của Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta. Hãy nhìn vào con người và thế giới bàng chính cái nhìn của Thiên Chúa.
23. CẬU BÉ ĐAU LIỆT TRONG BỨC TRANH
Một trong những bức tranh bất hủ của danh hoạ Rafaello, người Italia, hiện đang được cất giữ trong bảo tàng viện Vatican: đó là bức hoạ Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê.
Trong bức tranh, người ta thấy có 3 tầng. Ở tầng cao nhất của bức tranh là khuôn mặt và toàn thân Chúa Giêsu trong cảnh chiếu sáng rực rỡ giữa các tầng mây. Ở tầng dưới của bức tranh và kề sát với Chúa Giêsu là ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đang trong tình trạng ngây ngất trước sự biến dạng rực rỡ của Chúa Giêsu. Và ở tầng thấp nhất của bức tranh, người ta thấy một nhóm môn đệ và một gia đình đang quây quanh một em bé đang đau liệt: tất cả đều chìm ngập trong một khung cảnh ảm đạm, mờ ảo.
Có lẽ danh hoạ Rafaello đã cố gắng giải thích cho chúng ta về sứ điệp của bài Tin Mừng tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là niềm hy vọng và là Đấng cứu chữa con người. Đứa bé đau liệt trong bức tranh là chính mỗi người trong chúng ta, là toàn thể nhân loại đang chịu đựng vì không biết bao nhiêu bệnh tật trong thân xác lẫn tâm hồn. Trong đám môn đệ đang quây quanh cậu bé đau liệt, Rafaello đã làm nổi bật hai cử chỉ: cử chỉ của một người môn đệ đang trỏ tay chỉ về cậu bé và cử chỉ của một người môn đệ khác đang chỉ tay về Chúa Giêsu…
Phải chăng Rafaello đã không muốn đánh thức ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đang say sưa chiêm ngưỡng thánh nhan rực rỡ của Chúa Giêsu mà quên đi cảnh nhân loại đang quằn quại trong đau thương khốn khổ?
Trong đời sống đạo, chúng ta dễ rơi vào hai thứi cực: hoặc chỉ chăm chú cầu nguyện mà không đếm xỉa gì đến lòng bác ái đối với tha nhân, hoặc ngược lại, xem hành động bác ái là một lời cầu nguyện mà không màng đến đời sống nội tâm.
Nơi Chúa Giêsu, chúng ta thấy được sự dung hoà tuyệt hảo giữa hoạt động và cầu nguyện. Ngài luôn bắt đầu một ngày hoạt động bằng sự cầu nguyện: từ sáng tin sương, Ngài đã lên núi cầu nguyện một mình. Và ngài cũng kết thúc một ngày làm việc bằng những giây phút kết hợp thân tình với Chúa Cha. Giữa những hoạt động sôi nổi, Ngài cũng dừng lại để cầu nguyện với Chúa Cha.
Nơi Chúa Giêsu, cầu nguyện đưa đến hoạt động và hoạt động dẫn đến cầu nguyện. Mỗi một gặp gở của ngài với tha nhân cung là một lời cầu nguyện và mỗi một lời cầu nguyện của Ngài cũng ôm trọn lấy tất cả những ai mà Ngài đã hoặc sẽ gặp gỡ.
Chúng ta hãy chiêm ngắm mẫu gương của Chúa Giêsu… Cả cuộc đời của chúng ta phải là một lời nguyện dâng lên Thiên Chúa, chứ không chỉ có những lời kinh mà chúng ta đọc ngoài môi mép.
Người ta không lên xe để ở mãi trên đó… Một môn sinh không đến thụ giáo để ở mãi bên cạnh thầy mình… Cũng thế, chúng ta không leo lên núi cao để ở lại mãi trên đó. Sau cơn ngây ngất của ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và gioan trên núi Tabôrê, Chúa Giêsu đã kêu gọi các ngài hãy trở lại với thực tế: đó là thực tế của những cuộc gặp gỡ, đương đầu và cuối cùng là cái chết.
Từ đỉnh cảo của sự cầu nguyện, từ bốn bức tường của nhà thờ, từ cung thánh của nững giây phút ngất ngây trong sự kết hiệp, chúng ta hãy quay lại với cuộc sống, nơi đó có những nghĩa vụ để thi hành, nơi đó có những con người để gặp gỡ và yêu thương.
24. HÃY CÓ ÁNH SÁNG
Năm 1963, trên màn ảnh truyền hình, dân chúng Hoa Kỳ đang hồi hộp theo dõi hai phi hành gia Armstrong và Aldrin đặt chân xuống mặt trăng, thì tại Houston thuộc tiểu bang Texas, một cậu thanh niên tên là Thomas Franklin Caraway bị đưa lên ghế điện vì tội cướp của, giết người… Cậu vừa lên 18 tuổi.
Trước đó, trong thời gian chờ đợi bị xử tử, cậu đã đọc và nghiền ngẫm quyển Kinh Thánh mà một người nào đó đã tặng cậu. Khi một ký giả hỏi cậu thích đoạn nào nhất, cậu giở lại trang đầu quyển Kinh Thánh và đọc đoạn: “Hãy có ánh sáng và tức thì ánh sáng đã có”. Cậu lặp đi lặp lại: “Và đã có ánh sáng. Ngày càng trôi qua, tôi càng nghĩ đến điều đó. Tất cả ý nghĩa của cuộc sống nằm ở đó: ánh sáng đã che chở chúng ta khỏi những đêm dài tăm tối”.
Giữa bốn bức tường đen tối của nhà tù, tình yêu của Thiên Chúa đã đánh động được Thomsa.Không có sự dữ nào mà Thiên Chúa không thể biến thành sự thiện… Thiên Chúa quyền năng không bao giờ mong muốn và tạo nên sự dữ cho con người, nhưng tình yêu của Người mãnh liệt, đến nỗi có thể biến sự dữ thành một cơ may phúc lộc cho con người.
25. “CON NGƯỜI BẤT HẠNH NHẤT TRẦN GIAN”
Cuộc đời của nhạc sĩ Beethoven, ngay cả khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng, cũng không phải là một cuộc đời hạnh phúc. Tất cả những nhà viết tiểu sử của thiên tài đều ghi nhận rằng ông đã qua một thời tuổi thơ khốn khổ. Cha ông đã xem kỳ tại âm nhạc của ông như một cơ hội để làm tiền. Thần đồng âm nhạc đã phải ngồi vào đàn Piano từ sáng tới chiều, đến độ ông đâm chán cả âm nhạc. Chỉ có mẹ ông mới là nguồn an ủi duy nhất của ông trong lúc tuổi thơ, nhưng bà đã mất năm ông mới 17 tuổi.
Năm 28 tuổi, Beethoven bắt đầu bị điếc. Ông cảm thấy thất vọng hoàn toàn. Và tai hoạ đã tiếp diễn cho đến cuối đời ông.
tuy nhiên, con người “bất hạnh nhất trần gian ấy” như ông thường nói về mình đã sáng tác những dòng nhạc bất hủ nhất ở cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19.
Kho tàng ẩn giấu trong ta chỉ có thể được khám phá và đem ra thi thố với thế giới nếu ta biết chiến đấu. Điều đó đòi hỏi những năm tháng dài, tuy nhiên,trở ngại cuối cùng mà ta có thể vượt qua sẽ làm ló dạng kho tàng ẩn giấu trong ta. Thánh Basiliô đã nói: Vĩ nhân không phải là người chỉ đọc sức với những điều cả thể, nhưng chính là biết làm cho những việc tầm thường trở thành cao cả bằng chính sức mạnh của mình.
26. XIN ĐƯỢC ĐÁNH GIÀY
Một linh mục thuộc giáo phận New York bên Hoa Kỳ chuyên lo mục vụ cho các tù nhân đã kể lại kinh nghiệm như sau:
Một hôm, ngài được mời đến thăm một thanh niên da đen sắp sửa bị đưa lên ghế điện vì đã giết người bạn gái của mình. Như thường lệ, mỗi khi gặp một tử tội sắp bị hành quyết, vị linh mục thường khuyên nhủ, giải tội và trao ban Mình Thánh Chúa.
Sau khi đã lãnh nhận các bí tích cuối cùng, người thanh niên da đen bỗng trầm ngâm suy nghĩ như muốn nói lên một điều gì rất quan trọng. Cuối cùng, với tất cả cố gắng của một người biết mình sắp lìa cõi đời này, anh mới thốt lên với tất cả chân thành:
“Thưa cha, con đã làm hư hỏng cả cuộc đời. Con chưa hề học được một điều gì hữu ích ngoài một điều duy nhất: đó là đánh giày. Xin cha cho con được phép đánh bóng đôi giày của cha. Như thế, con hài lòng vì nhận được sự tha thứ của Chúa, bởi vì con không biết làm gì để tạ ơn Chúa trước khi con gặp lại người bạn gái của con trên thiên đàng”.
Và không đợi cho vị linh mục trả lời, người thanh niên đã cúi gập người xuống và bắt đầu đánh bóng đôi giày của vị linh mục… Cử chỉ ấy khiến cho vị linh mục nhớ lại hình ảnh của người đàn bà đã quì gối bên chân Chúa Giêsu, đổ dầu trên đầu, trên chân của Ngài và dùng tóc của bà để lau chân Ngài. “tội của con dù có nhiều đến đâu cũng được tha, bởi vì con đã yêu nhiều”.
Theo quan niệm công bình và thưởng phạt của chúng ta, kẻ có tội ắt phải đền tội. toà án của loài người thường cân lường tội trạng của người có tội để tìm ra một hình phạt cân xứng.
chúng ta không thể áp dụng một thứ cán cân như thế vào trong mối tương quan giữa tội lỗi của chúng ta với sự công thẳng của Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa chỉ có một trái tim duy nhất: đó là lòng nhân từ. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và muốn phủ lấp tất cả tội lỗi của chúng ta bằng lòng nhân từ vô biên của Ngài.
do đó, khi nói đến ăn chay đền tội, chúng ta không thể cân lường tội lỗi của chúng ta để rồi tìm ra một lượng đền tội cho cân xứng. Có hy sinh nào tương xứng được với tội trạng của chúng ta? Có án phát nào cân xứng với sự xúc phạm của chúng ta?
Thiên Chúa không chờ đợi nơi chúng ta điều gì khác hơn bằng chính tình yêu của chúng ta. Với tình yêu, thì dù một cử chỉ nhỏ mọn cũng trở thành một lễ dâng đẹp lòng Chúa. Những gì chúng ta dâng lên Chúa, không phải là của cải chúng ta có, những bố thí chúng ta làm cho người khác, những khổ chế chúng ta tự áp đặt cho bản thân… mà chính là lòng yêu mến của chúng ta.
27. TUYÊN UÝ CỦA TÙ NHÂN
Hôm nay là ngày kính nhờ thánh Vinh Sơn đệ Phaolô. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 17, linh mục Vinh Sơn được cử đi làm tuyên uý cho các tù khổ sai bị trói vào những cột chèo lớn trên các thuyền buồm của đế quốc Pháp. Với bản chất nóng nảy, hiếu thắng, cục nịch… cộng với những phản ứng thô lỗ mà có lẽ vị linh mục tuyên uý đã bị tiêm nhiễm trong suốt thời kỳ ở với các tù nhân, cha Vinh Sơn đã được một nữ bá tước đứng ra mời làm trưởng nhóm của một số linh mục đang phục vụ như những thừa sai giữa giới nghèo trong khắp cả nước Pháp… Cha Vinh Sơn đã chấp thuận lời đề nghị.
Một khúc quanh lịch sử không những bắt đầu với cha mà còn cha cả Giáo Hội nữa: các linh mục dòng thánh Vinh sơn đệ Phaolô mà chúng ta thường gọi là các cha Lazaristes đã ra đời từ đó. Ngoài ba nhân đức thông thường mà các tu sĩ phải khấn giữ, họ còn cam kết phục vụ hoàn toàn cho giới nghèo.
thời gian sau, với sự cộng tác củ chị Louise de Marillac, cha Vinh Sơn đã thiết lập dòng Nữ Tử Bác Ái cũng đeo đuổi cùng một mục đích: đó là phục vụ người nghèo… Cha Vinh Sơn đã định nghĩa dòng nữ này như sau: nhà dòng của họ là nhà thương, nhà nguyện của họ là nhà thờ giáo xứ, khu nội cấm của họ là các ngã đường phố xá.
Chúc thư và cũng là tinh thần của thánh Vinh sơn đệ Phaolô được chứa đựng trong các lá thư của ngài. Chúng ta hãy đọc qua một đoạn sau đây: “Hãy cố gắng bằng lòng ngay giữa những điều làm cho chúng ta bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí con khỏi những điều đang làm con giao động. Chúa sẽ lo liệu cho mọi sự… Cha van xin con, hãy tín thác nơi Chúa. Con sẽ có một sự tâm hồn con khao khát”.
Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng con số không: Ngài nghèo đến nỗi không có nơi gối đầu. Thế nhưng ngày nay, khi nhìn vào Giáo Hội, người ta nghĩ ngay đến quốc gia Vatican, với một bảo tàng viện phong phú nhất, với những vương cung thánh đường lộng lẫy, với những cuộc biểu dương rầm rộ. Người ta cũng có thể nhìn vào các toà Giám Mục đồ sộ.
Các vị sáng lập dòng cũng thường bắt đầu bằng con số không. Nhưng ngày nay, có ai chối cãi được rằng những cơ sở lớn mà người ta thường thấy trong các đô thị lại thuộc về các hội dòng.
giáo Hội và cách riêng các hội dòng có phục vụ người nghèo và có thuộc về người nghèo không…? Có lẽ, nhiều hội dòng mà mục đích nguyên thuỷ là phục vụ người nghè và sống nghèo, cần phải đấm ngực tự thú rằng mình đã quá đi xa tinh thần của đấng sáng lập… Sống nghèo trước hết đó là sống tín thác vào Chúa quan phòng. Có thể nói đó là nhân đức trỗi vượt và cũng là mẫu số chung của các vị thánh: phó thác hoàn toàn vào tình yêu của chúa.
Chúa kêu mời chúng ta chớ có lo lắng thái quá về ngày mai. Càng lo lắng con người càng nuôi dưỡng sự tham lam và càng thiếu lòng tin tưởng vào Chúa. Lòng tin của chúng ta được đo lường bằng chính lòng phó thác vào Chúa.
28. CON VẬT ĐẦU ĐÀN
Một khách lữ hành đi về những vùng núi xứ Tô Cách Lan, một hôm dừng chân lại bên cạnh một đàn cừu. Bỗng ông ta chú ý đến một con cừu đang được người mục tử chăm sóc một cách đặc biệt. Con vật nằm dài trên mặt đất. Chủ nó vừa vuốt ve vừa nói chuyện với nó một cách dịu dàng, trong lúc tay vẫn không ngừng băng bó một chân của nó. Người khách bộ hành lại gần và hỏi xem cho biết việc gì. Thoạt tiên, người chăn chiên tỏ vẻ khó chịu vì p[hải trả lời. Nhưng sau đó vẻ thân mật của người bộ hành đã làm cho anh vững lòng, vì thế anh ta không ngần ngại giải thích:
“Con cừu này có những đức tính tuyệt hảo của một người hướng đạo. Khi còn lành mạnh, nó luôn luôn dẫn đầu đàn cừu, biết cách làm cho những con vật khác vâng lời nó và theo nó. Khổ thay vì quá tự tin nên nó không theo lệnh của tôi và dẫn đàn cừu theo sở thích riêng của nó. Tôi đã tìm đủ mọi cách để thay vào chỗ của nó một con đầu đàn khác nhưng vô hiệu, vì hễ con nào có vẻ như muốn thay nó đều bị nó đánh và xua đuổi. Tình trạng của đàn cừu do đó trở nên nguy ngập. Tôi buộc lòng phải áp dụng một phương pháp khá đau đớn”.
Nói đến đây người chăn chiên ngừng lại như bị cảm xúc mạnh. Anh giải thích tiếp như sau: “tôi đành phải bẻ gãy chân nó. Kể từ lúc đó, con vật bị thương nên hoàn toàn tuỳ thuộc vào tôi. Mỗi buổi sáng, tôi vác nó lên vai đem ra đồng cỏ. Và buổi chiều tôi lại vác nó trên vai đem về. Nó không thể tự mình đi ăn cỏ được. Vì thế, từ một tháng nay, nó ăn giữa lòng bàn tay của tôi. Những săn sóc liên tục của tôi đã tạo nên giữa tôi và nó một sự liên hệ vô cùng mật thiết. Bây giờ có lẽ nó hiểu rằng sau khi đã làm cho nó bị thương, tôi đã tìm đủ mọi cách để làm giảm bớt sự đau đớn của nó. Về phần tôi, tôi cũng biết rằng sẽ không tìm được trong tất cả đàn cừu một con nào biết vâng lời tôi hơn nó. Trong vài ngày nữa, khi nó khoẻ mạnh, tôi sẽ phục hồi nó lại trong địa vị cũ của nó”.
Hình ảnh trên đây gợi lại phần nào Tình yêu của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta. Cựu Ước đã không ngần ngại so sánh Thiên Chúa với một người mục tử. Người mục tử chăm sóc từng con chiên, người mục tử uốn nắn từng con chiên, người mục tử sửa trị từng cho chiên… Nhưng tất cả chỉ vì sự yêu thương đàn chiên của mình.
thiên Chúa có thực sự yêu thương chúng ta không? đó là câu hỏi mà chúng ta có quyền đặt ra trong những mò mẫm tìm kiếm hạnh phúc của chúng ta. Cuộc sống xem chừng như không diễn ra một cách xuôi chảy cho từng người. Chúng ta không bao giờ được thoả mặn hoàn toàn. Đau khổ, thất bại như những bóng mờ lúc nào cũng chực sẵn để ập phủ trên chúng ta… Chiến tranh, chết chóc, bệnh tật, tai ương đã trở thành như tất yếu đối với chúng ta. Một Thiên chúa nhân từ, một Thiên Chúa quan phòng, một Thiên Chúa quyền năng lẽ nào lại để cho đau khổ đè bẹp con người…? Bí ẩn của đau khổ luôn gợi lên trong chúng ta những thắc mắc về tình yêu của Thiên Chúa.
người Kitô chúng ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời trong mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô. Thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài. VÀ Người Con Một đó đã yêu đến nỗi đã tự phó nộp mình và chết trên thập giá.
tình yêu của Thiên Chúa gắn liền với thập giá của Đức Kitô. Đau khổ đã trở thành ánh sáng chiếu rọi vào tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nói như thế không có nghĩa là Thiên Chúa muốn con người phải chịu đau khổ, Thiên Chúa cũng không tạo ra đau khổ để sửa trị con người. Nhưng qua đau khổ, Thiên Chúa như muốn hé mở cho con người thấy Ngài là Đá Tảng, là nơi nương tựa duy nhất của con người.
29. NGƯỜI ĂN CẮP CỪU
Tại một miền quê bên Mỹ, vào thời kỳ lập quốc. Có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn cắp cừu. Dân trong làng đã mở toà án nhân dân để trừng phạt.
Sau khi nghị án, mọi người đã đồng thanh cho khắc trên trán của tội nhân hai chữa viết gắt S.T. có nghĩa là “Người ăn cắp cừu”.
Một trong hai người ăn trộm không chịu nổi sự sỉ nhục đã trốn sang một vùng đất khác để chôn chặt dĩ vãng của mình. Nhưng anh không thể xóa nhoà được hai chữ viết tắt trên trán của mình. Bất cứ một người lạ mặt nào cũng đều tra hỏi anh về ý nghĩa của hai chữ ấy. Lại một lần nữa, không chịu nổi sự nhục nhã, anh đã ời bỏ nơi cư ngụ mới để tiếp tục lang thang và cuối cùng mòn mỏi trong cay đắng, anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.
Nếu người anh của mình đã bị sự nhục nhã gậm nhắm đến độ phải trốn suốt cả cuộc đời, thì người em lại từ nói với mình: “Tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy con cừu. tôi phải ở lại đây và tôi phải tạo lại sự tin cần nơi những người xung quanh và nơi chính tôi”.
Với quyết tâm đó, anh đã ở lại trong xứ sở của mình. Và không mấy chốc, anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như danh thơm của một người thanh liêm chính trực.
Nhưng cho dù năm tháng có qua đi, hai chữ S.T. vẫn còn ghi đậm trên vầng trán của anh… Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa của hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: “Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng hai chữ viết ấy có nghĩa là thánh thiện”.
Một thi sĩ người Ấn độ đã gởi tặng cho đài phát thanh Chân lý những vần thơ sau đây:
“Hãy tin nơi bạn, vì bạn là hình ảnh của Thiên Chúa.
Hãy tin ở công việc của bạn vì một công việc chính trực là một lời cầu nguyện.
hãy tin ở ngày hôm nay vì mỗi phút chứa đựng một dịp may để phụng sự Chúa.
Hãy tin ở những người xung quanh của bạn vì bạn hữu là điều quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc.
Hãy tin ở hiện tại vì hôm qua đã qua đi và ngày mai sẽ không bao giờ đến.
Hãy tin ở lòng thương của Chúa vì Ngài tha thứ cho bạn. Và bạn hãy tha thứ cho chính mình”.
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta và Ngài mời gọi chính chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình. Mỗi một may mắn là một dịp để chúng ta dâng lời cảm tạ và chúc tụng Chúa. Mỗi một thất bại và đau khổ là khởi đầu của một nguồn ơn dồi dào hơn. Mỗi một vấp phạm là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn. Bởi vì trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta.
30. TÌNH THƯƠNG ĐÁP TRẢ LẠI HẬN THÙ
Bà Coretta King, vợ của cố mục sự Martin Luther King, đã ghi lại trong quyển hồi ký của bà như sau:
Martin ra trước cửa nhà. Một cách nào đó, đây là giờ phút quan trọng nhất trong cuộc đời của anh.
Trước đó vài hôm, một quả bom đã được quăng vào nhà. Vợ và con anh suýt bị sát hại. Đây là thử thách đầu tiên nặng nề nhất mà anh phải chịu đựng. Đồng thời nó cũng là trắc nghiệm để xem anh có thể sống những nguyên tắc Kitô và thuyết bất bạo động mà anh hằng rao giảng không. Anh xuất hiện một cách bình thản trước đám đông người da đen đang sôi sục hận thù.
Khi anh vừa giơ tay lên làm hiệu thì mọi tiếng động bỗng như dừng lại. Anh đã chiếm lĩnh được tâm hồn mọi người, từ những người đứng tuổi đến các bạn trẻ bốc đồng nhất, từ các cảnh sát viên cho đến những người sợ hãi đang đứng nép bên các bật thang trước cổng nhà.
Với một giọng nói bình tĩnh, nhẹ nhàng, anh khuyên nhủ mọi người như sau:
“Vợ tôi và con gái tôi vẫn bình an. tôi xin anh em hãy trở về nhà và hãy buông khí giới. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề bằng bạo động. Chúng ta phải yêu thương những người da trắng anh em của chúng ta, dù họ có làm gì cho chúng ta đi nữa. chúng ta phải làm cho họ hiểu rằng chúng ta yêu thương họ thật sự. Chúng ta phải sống như thế đó: nghĩa là hãy lấy tình thương đáp trả lại hận thù”.
Lời kêu gọi trên đây của mục sự Luther King và cái chết của ông là một bản sao trung thành nhất của Tin Mừng: đó là Tin Mừng của Đấng yêu thương và yêu thương cho đến chết trên thập giá…
Vào tù ra khám, bị đòn vọt, trải qua trăm nghìn gian lao khốn khổ do những người không tiếp nhận Tin Mừng gây ra, thánh Phaolô vẫn có thể khuyên nhủ các tín hữu Roma như sau:
“Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ. Hãy vui với kẻ vui, hãy khóc với kẻ khóc. Cùng nhau tâm đầu ý hợp. Đừng quá cao vọng về mình. Trái lại, hãy biết bỏ mình, chuộng phần yếu kém… Đừng lấy ác báo ác: điều thiện trước mặt mọi người, hãy cố quan tâm. Hãy sống an hoà với mọi người… anh em thân mến, hãy sống an hoà với hết thảy mọi người. Đừng báo oán. Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ”.
Ước gì những lời khuyên nhủ trên đây trở thành khuôn vàng thước ngọc trong mọi giao tiếp và gặp gỡ của chúng ta với mọi người.