LINH MỤC PHỤ TÁ THEO GIÁO LUẬT

VAI TRÒ CỦA LINH MỤC PHỤ TÁ THEO GIÁO LUẬT

Bộ Giáo Luật 1917 (cann. 471-478) nói đến 5 loại “cha phó” ở giáo xứ: 1- linh mục phụ tá (assistant), vicarius cooperator, tương đương với vị phụ tá hiện nay; 2- linh mục quản xứ (parochial administrator), vicarius oeconomus, trực thuộc quyền một linh mục chính xứ, khi cha xứ bị ngăn trở hay chưa có cha xứ; 3- linh mục phụ tá vĩnh viễn (actual or permanent vicar) lo việc mục vụ cho một pháp nhân, như một cha xứ; 4- linh mục phụ tá thay thế linh mục chính xứ vắng mặt lâu dài (vicar substitute), vicarius substitutus; 5- linh mục phó xứ, vicarius adiutor, đương nhiên kế vị hay thay thế khi linh mục chính xứ vắng mặt (vicar coadjutor); được chỉ định khi cha xứ đã già yếu hay bệnh tật mất sức làm việc. Bộ Giáo Luật 1983 chỉ còn đề cập đến hai loại linh mục phụ tá đầu tiên.

Giáo luật trước đây, luật phổ quát và luật địa phương, đề cập nhiều đến các loại linh mục phụ tá(vicar). Giáo luật hiện hành đã đơn giản hoá rất nhiều, nhưng lại nói nhiều hơn về chính vai trò của vị phụ tá.

I. CHỨC VỤ LINH MỤC PHỤ TÁ

Khi một giáo xứ trống hay khi linh mục chính xứ không thể lo mục vụ cho giáo xứ, vì lý do đau yếu hay một lý do khác, Đức Giám mục giáo phận có thể bổ nhiệm một linh mục hay một giáo dân làm vị quản xứ (GL 539). Linh mục quản xứ, (priest) parochial administrator, có toàn bộ các nghĩa vụ và quyền hạn như linh mục chính xứ, trừ khi Đức Giám mục quy định rõ cách khác (GL 540. 1).

Khi thấy có nhu cầu mục vụ, Đức Giám mục giáo phận có thể bổ nhiệm một hay nhiều linh mục làm phụ tá cho linh mục chính xứ. Theo tinh thần của Sắc Lệnh về Giám Mục số 30, tên gọi đã đổi từ vicarius cooperator (người cộng tác) sang vicarius paroecialis (của giáo xứ), dù vị linh mục này vẫn còn là phụ tá cho cha xứ. Linh mục phụ tá, parochial vicar, theo điều 545, 1 có thể hiểu là phụ tá cho cha xứ, nhưng điều 545,2 lại thiên về nghĩa phụ tá cho giáo xứ.

Theo điều 476 Bộ GL 1917, vị phụ tá cooperator “được ban cho cha xứ (eidem datur) … vì số giáo dân đông đảo hay vì những hoàn cảnh khác, cha xứ không thể bảo đảm việc chăm sóc giáo xứ một mình … cha xứ phải hướng dẫn vị phụ tá trong tình cha con, hướng dẫn ngài trong việc chăm sóc các linh hồn, theo dõi và báo cáo với vị Thường Quyền ít nhất một năm một lần”. Trong khi đó, điều 545 Bộ GL 1983 cho rằng “mỗi khi xét thấy cần thiết hay thuận lợi cho việc săn sóc mục vụ tốt đẹp của một giáo xứ”, Đức GM bổ nhiệm một linh mục phụ tá. Việc báo cáo thay vì do cha xứ báo cáo thường niên về cha phó với Giám Mục; hiện nay, linh mục phụ tá phải báo cáo thường xuyên với cha xứ về công tác mục vụ được giao (GL 548, 3).

Linh mục phụ tá có thể được bổ nhiệm trợ giúp linh mục chính xứ trong tất cả mọi công việc mục vụ cho toàn giáo xứ; cũng có thể chỉ cho một phần giáo xứ; hay chỉ cho một nhóm tín hữu, chẳng hạn chỉ lo cho người di dân. Đôi khi một linh mục có thể được cử làm phụ tá trợ giúp cho nhiều giáo xứ về một công việc mục vụ, chẳng hạn lo mục vụ giới trẻ cho cả hạt (GL 545). Trách nhiệm và quyền hạn của vị phụ tá này sẽ do bổ nhiệm thư quy định.

Vị phụ tá giáo xứ chính thức, parochial vicar, phải có chức linh mục (GL 546). Dù được Đức giám mục bổ nhiệm chính thức, vị quản xứ hay thừa tác viên, nếu không có chức thánh, vẫn không thể nhận trách nhiệm “coi sóc các linh hồn”. Sau Vatican II, có một thời gian phó tế có thể được bổ nhiệm làm vị phụ tá, nhưng Bộ Giáo Luật 1983 đã rút lại.

Đức giám mục hoàn toàn tự do khi bổ nhiệm linh mục phụ tá, có thể nói là theo sở thích (ad nutum Episcopi). Nếu thấy cần, Ngài có thể tham khảo ý kiến linh mục quản hạt và linh mục chính xứ hay các xứ lân cận (GL 547). Trước đây, Bộ Giáo Luật 1917 quy định Đức giám mục bắt buộc phải hỏi ý linh mục chính xứ (can. 476. 3-4), nhưng giáo luật hiện hành không nói đến nữa. Vị giám mục có thể ủy quyền cho cha tổng đại diện hay một đại diện giám mục lo việc bổ nhiệm linh mục, với một văn bản ủy quyền rõ ràng (GL 479, 1-2).

II. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN HẠN

Bộ Giáo Luật 1983, hầu như không nói gì về các nghĩa vụ và quyền lợi riêng biệt của linh mục phụ tá ở giáo xứ. Những chi tiết cụ thể này được dành cho: 1- Quy chế linh mục của giáo phận; 2- Bổ nhiệm thư của Giám mục; 3- chỉ dẫn trực tiếp của linh mục chính xứ (GL 545; 548).

Ngoài những nghĩa vụ chung của hàng giáo sĩ (GL 273-289), thông thường linh mục phụ tá có bổn phận trợ giúp linh mục chính xứ để lo việc mục vụ chung cho toàn giáo xứ; nghĩa là cùng chia sẽ cả ba thừa tác vụ giảng dạy, thánh hóa và quản trị cộng đoàn. Quyền hạn của linh mục phụ tá trong giáo xứ không phải là quyền “thường xuyên” (ordinary) do chức vụ, nhưng là quyền được cha xứ ủy thác (delegated).

Một số cử hành Phụng Vụ và Bí Tích được dành riêng cho cha xứ (GL 530). Nếu không có sự đồng ý hay yêu cầu của cha xứ, linh mục phụ tá không có quyền cử hành: – Rửa Tội; – Thêm Sức trong trường hợp nguy tử (GL 883,3); – Xức Dầu bậnh nhân… (GL 1003, 2-3); – cử hành an táng; – làm phép giếng Rửa Tội trong mùa Phục Sinh; – chủ sự rước kiệu trọng thể; – tổ chức và cử hành các thánh lễ trọng thể.

Với chức vụ phụ tá, vị linh mục không đương nhiên có quyền chứng hôn; nhưng phải được vị Thường Quyền giáo phận hay cha xứ ủy quyền tổng quát hay riêng biệt từng trường hợp. Dù đã được ủy quyền chứng hôn tổng quát do cha xứ hay do bổ nhiệm thư của vị Thường Quyền (GL 1111), linh mục phụ tá vẫn phải “có phép của cha xứ trong từng trường hợp khi có thể xin phép” (GL 1114).

Vị phụ tá không phải dâng “lễ họ” (missa pro populo; GL 534), kể cả khi thay thế cha xứ vắng mặt.
Chỉ một mình cha xứ có quyền đại diện giáo xứ trong lãnh vực pháp lý dân sự hay giáo luật (GL 532; 519; 515,1); cũng như ngài hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc quản trị tài chính của giáo xứ, nên có thể bị cách chức vì quản lý tồi tệ (GL 1283, 1; 1282; 1284; 1741, 5).

Theo giải thích chính thức của Ủy Ban soạn thảo, “các linh mục phụ tá không thuộc về cơ cấu giáo xứ”. Linh mục phụ tá không phải là thành viên đương nhiên của hội đồng kinh tế giáo xứ hay hội đồng quản trị tài chính (GL 537), và hội đồng mục vụ giáo xứ (GL 536), trừ khi quy chế của giáo phận có nêu lên.

Vị phụ tá chỉ phải trả lời với cha xứ về trách nhiệm được giao, không phải chịu trách nhiệm mục vụ tổng quát của giáo xứ. Trong khi đó, vị linh mục thành viên của nhóm linh mục (thường là một nhóm linh mục dòng hay khi một nhóm linh mục chia sẽ trách nhiệm nhiều giáo xứ) được giao trách nhiệm tập thể, in solidum, phải chia sẽ mọi trách nhiệm (GL 517,1).

Linh mục phụ tá phải cư trú “trong giáo xứ”, trừ khi Đức giám mục cho phép ở nơi khác (GL 550. 1); còn linh mục chính xứ phải cư ngụ “trong nhà xứ gần thánh đường” (GL 533, 1). Việc vi phạm bổn phận cư trú này có thể bị “hình phạt thích đáng”, “kể cả việc cách chức, sau khi đã cảnh cáo” (GL 1396).

Bộ Giáo Luật 1917 (can. 134) cổ võ việc các giáo sĩ sống chung một nhà. Công đồng Vatican II và Bộ Giáo Luật 1983 khuyến cáo: nơi nào có thể, linh mục chính xứ và vị phụ tá cùng cư ngụ tại “nhà xứ” (Presbyterorum Ordinis 8; GL 280; 550.2). Đời sống chung của giáo sĩ, kể cả việc ăn uống chung, đem lại nhiều ích lợi: nâng đỡ cho đời sống đạo đức, bảo đảm cho đức khiết tịnh; thuận lợi cho việc trù tính và thực thi các chương trình mục vụ; tạo cơ hội để cầu nguyện chung, chia sẽ ý kiến, khích lệ và nâng đỡ lẫn nhau; để thể hiện “tình huynh đệ linh mục thừa tác” và nâng đỡ các linh mục trẻ đang cần được hướng dẫn bước đầu thực thi tác vụ (Presbyterorum Ordinis 8).

Hội Thánh mong muốn linh mục chính xứ và vị phụ tá sống theo tình huynh đệ. Họ cần đối xử với nhau trong tình bác ái và tôn trọng lẫn nhau, thông cảm và đón nhận nhau, nâng đỡ nhau bằng lời nói, việc làm và gương sáng. Vị phụ tá, với tư cách là nguời cộng tác của linh mục chính xứ, phải hăng hái và nhiệt thành trong khi thi hành việc mục vụ hằng ngày, duới quyền điều hành của linh mục chính xứ. Cả hai vị cần có một tinh thần hăng say chung vì lợi ích thiêng liêng của cộng đoàn tín hữu (Vat. II, Christus Dominus 30).

III. QUYỀN LỢI

Ngoài những quyền lợi chung của hàng giáo sĩ (GL 273 -289), linh mục phụ tá có quyền có lương bổng và chi phí sinh hoạt cho cá nhân mình trích từ ngân quỹ của giáo xứ (GL 281); có quyền lấy bổng lễ mình đã cử hành, theo như quy định về bổng lễ của giáo phận (GL 952).

Linh mục phụ tá hay bất cứ linh mục nào nhận của dâng cúng, khi làm công tác mục vụ trong giáo xứ (stole fees), phải nộp vào quỹ giáo xứ, trừ khi người tặng nói rõ là quà tặng cá nhân linh mục đó (pocket money; GL 551). “Stole fees” này thường là tiền giáo dân dâng cúng nhân dịp linh mục cử hành Rửa Tội, hôn phối, an táng, làm phép nhà…., thăn viếng bệnh nhân…. Quy định này được giữ rất nghiêm chỉnh trong các giáo hội Tây Âu và Bắc Mỹ. Vùng Đông Bắc Mỹ trước đây, các linh mục phụ tá phải nộp cho cha xứ, nếu của dâng cúng trên 05 USD; hiện nay luật giáo phận Boston đã bỏ điều khoản này.

Linh mục phụ tá có quyền nghỉ hè như cha xứ, nghĩa là hàng năm tối đa một tháng, liên tục hay gián đoạn; không tính những ngày tĩnh tâm hàng năm và thường huấn (GL 550, 3; 533, 2).

Khi giáo xứ trống hay linh mục chính xứ bị ngăn trở, vị phụ tá đương nhiên đảm nhiệm giáo xứ như vị quản xứ, cho đến khi Đức giám mục cử một linh mục chính xứ hay quản xứ mới (GL 549; 541. 1).

IV. THUYÊN CHUYỂN LINH MỤC PHỤ TÁ

Linh mục chính xứ thường được bổ nhiệm vô thời hạn để có thể ổn định xây dựng đường hướng mục vụ công đoàn; do đó, chỉ thuyên chuyển khi có lý do nghiêm trọng (GL 522; 193, 1). Điều 1741 nêu lên 05 lý do: gây tổn hại nặng cho cộng đoàn, bệnh tật thường xuyên về tâm thần hay thể xác đến mức không còn khả năng làm mục vụ hữu hiệu, bị dân chúng hiềm khích, chểnh mảng bổn phận, quản lý tài sản bê bối gây thiệt hại nặng. Khi bị thuyên chuyển bất công, ngài có thể thượng cầu chống lại quyết định thuyên chuyển (GL 1740 –1747).

Linh mục phụ tá có thể thuyên chuyển chỉ vì một lý do chính đáng (GL 552), chứ không cần phải có lý do nghiêm trọng. Giáo luật cũng không dự trù phương thế thượng cầu cho linh mục phụ tá.

Đối với một linh mục dòng được bổ nhiệm làm phụ tá giáo xứ, Đức giám mục giáo phận hay vị Bề Trên dòng đều có quyền thuyên chuyển, sau khi thông báo cho vị kia biết; chỉ cần có thông báo, chứ không cần đợi sự chấp thuận (GL 682, 2).

Khi giáo phận trống tòa hạy cản tòa quá một năm, vị giám quản giáo phận (diocesan administrator) mới có quyền bổ nhiệm và thuyên chuyển cha xứ; nhưng ngài có thể thuyên chuyển ngay các linh mục phụ tá (GL 525).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *