KINH BỘ TÂN ƯỚC
1. Những khuôn vàng thước ngọc của Giáo Hội buổi sơ khai
Vì nguồn gốc Cựu Ước là Thiên Chúa và vì những đặc tính của Cựu Ước (2 Phr 1,20), Chúa Giêsu, như những người Do-thái ngoan đạo, đã coi Cựu Ước như quy tắc về tín lý và phong hoá.
Người đã trích dẫn Sáng thế 1,27 để chứng minh tính cách không thể phân ly của hôn nhân (Mt 19,4 tt), Xuất hành 3,6 để chứng minh sự sống lại (Mt 22,31) và Thánh vịnh 110,1 để chứng minh Đấng Cứu Thế trọng hơn Đavid (Mt 22,44). Chúa Giêsu cũng biết Cựu Ước đã báo trước việc Người đến và số phận của Người (Lc 4,21 tt; 24,24-26; Gio 5,39). Đàng khác, Chúa Giêsu đã đặt thế giá của Người trên thế giá Cựu Ước khi Người tuyên bố Người đến để kiện toàn Luật (Mt 5,17) và nói rõ những điều chỉ có tính cách phụ thuộc, bất toàn và nhất thời của Luật Môsê (Mt 5,21-48; 19,1-9; …).
Đối tượng việc rao giảng của các Tông đồ là lời dạy và việc làm của Chúa Cứu Thế chứ không phải Cựu Ước. Nhưng là những người Do-thái và là môn đệ Đấng Cứu Thế, các Tông đồ cũng nhìn nhận thế giá của Cựu Ước, và cũng như Thầy Chí Thánh, họ nhận biết trong Cựu Ước những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế và những lời tiên tri đó đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu thành Nazareth (Gio 5,39; Cv 17,2 tt; 2 Tim 3,15; Dt 10).
Đối với thánh Phaolô cũng vậy, Chúa Giêsu và giáo lý của Người làm kiện toàn Luật (Rm 8,4; 10,3; Gal 3,24) và là ánh sáng duy nhất làm cho hiểu đúng nghĩa của Cựu Ước. Những người Do-thái phủ nhận ánh sáng đó là phủ một tấm màn lên trí năng khi họ đọc sách Luật (2 Cor 3,15).
Vì Chúa đã trao phó sứ mệnh rao giảng những lời Chúa dạy và các việc Chúa làm cho các Tông đồ, là những người từ đầu đã được mục kích các việc Chúa làm, và để họ có thể rao giảng một cách khéo léo Chúa đã ban cho họ Chúa Thánh Thần (Lc 24,49; Cv 1,4; 1 Cor 7,40; 14,37; Gal 1,15; Rm 2,25; Eph 3,3) để khi Chúa về trời rồi, Chúa Thánh Thần hướng dẫn họ hiểu biết chân lý tuyệt đối (Gio 14,26; 16,13; 14,17; 15,26; 16,7), vì thế các giáo hữu cũng coi những lời giảng dạy của các Tông đồ như những quy tắc của đời sống (2 Th 2,14; Giu 17 và 2 Phr 3,2 cũng nhắc rõ tới lời giảng của các Tông đồ). Khi lãnh vực truyền bá Phúc Âm của các Tông đồ lan rộng, các ngài và các cộng sự viên phải giảng dạy Lời Chúa hay lời của chính các ngài bằng thư từ.
Tuy các thư đã được soạn ra trong những hoàn cảnh nhất định và chỉ nhắc lại một vài điểm mà các Tông đồ đã dạy, các thư đó vẫn được coi là những thư chung. Các thư đó đã được phổ biến rộng rãi, nhất là sau khi các tác giả đã qua đời, vì lẽ các thư đó nhiều khi gởi cho nhiều giáo đoàn khác nhau, hoặc vì theo ý tác giả (Col 4,16), hoặc vì trong các cuộc bút chiến với các phe lạc đạo, việc nhắc tới các thư đó là một chứng lý quan trọng, sau hết, hoặc vì các thư đó đã được đọc rất sớm trong các buổi hội họp phụng vụ.
Như vậy, Giáo hội buổi sơ khai có ba pho sách làm khuôn vàng thước ngọc : Cựu Ước, lời dạy của Chúa Giêsu và lời dạy của các Tông đồ. Tình trạng đó dẫn đến việc thành lập một kinh bộ thứ hai bên cạnh kinh bộ Cựu Ước. Trong tác phẩm của các tác giả thời kỳ Giáo hội sơ khai, ta gặp thấy danh từ “Tân Ước” chỉ các sách đó trong một tác phẩm của một tác giả chống đối bè rối Montanô năm 192.
2. Khái niệm về Kinh bộ
Danh từ Kinh bộ do tiếng Hy-lạp “kanôn”. Kanôn có nghĩa là cái gậy để đo chiều dài (Ez 40,3-5). Trong Tân Ước, kanôn ba lần chỉ lãnh vực hoạt động tông đồ của thánh Phaolô (2 Cr 10,13; 15; 16) và một lần chỉ qui tắc đời sống mà các tín hữu phải noi theo (Gal 6,16).
Với các nhà toán học, thiên văn học, sử gia, kanôn có nghĩa là sổ các sách. Thánh Athanasiô (+373) đã dùng tiếng kanôn theo nghĩa này khi nói đến các Sách Thánh, thánh nhân đã viết rằng cuốn Mục thủ của Herma không phải là thành phần Kinh bộ.
Tiêu chuẩn để phân biệt sách chính lục với sách thường có thể là tiêu chuẩn lịch sử hay tín lý. Chỉ có Giáo hội được Chúa Thánh Thần phù trợ có quyền tuyên bố một cách bất khả ngộ những sách nào là chính lục. Nói thế không có nghĩa là sự can thiệp của Giáo hội làm cuốn sách trở nên chính lục.
Điều này đã được Công đồng Vatican I nói rõ trong phần dạy về tín lý Công giáo (24/4/1870) : “Giáo hội coi là đáng kính và chính lục những sách Cựu Ước và Tân Ước mà Công đồng Trentô đã ấn định, không phải vì các sách đó đã được trước tác do trí năng nhân loại rồi sau được Giáo hội công nhận; cũng không phải vì những sách đó chứa đựng mạc khải không sai lầm, nhưng vì các sách đó đã được viết dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, nên tác giả là Thiên Chúa và đã được truyền lại cho Giáo hội như thế”.
Tài liệu về lịch sử Kinh bộ là sổ các Sách Thánh thời xưa, những quyết định của các Công đồng miền, những cảo bản Kinh Thánh và tác phẩm các Giáo phụ. Sistô da Sienna OP. đã dùng danh từ đệ nhất lục (protocanonique) để chỉ những sách đã được coi là chính lục sớm hơn và danh từ đệ nhị lục (deuterocanonique) để chỉ những sách được coi là chính lục muộn hơn.
Thuộc đệ nhất lục : 4 Phúc Âm; Công vụ Tông đồ; 13 thư thánh Phaolô : Rôma, 1 và 2 Corintô, Galata, Ephêsô, Philipphê, Colossê, 1 và 2 Thessalonica, 1 và 2 Timôthê, Titô, Philêmon, 1 Phêrô, 1 Gioan.
Thuộc đệ nhị lục : Thư gửi tín hữu Do-thái; Thư thánh Giacôbê; Thư 2 Phêrô; Thư thánh Giuđa; Thư 2 và 3 thánh Gioan và sách Khải huyền; Mc 16,9-20; Lc 22,43-44; Gio 7,53 – 8,11 cũng thường được kể là thuộc đệ nhị lục.
3. Kinh bộ Tân Ước thành hình
Về Kinh bộ Tân Ước mà những bước đầu không được biết rõ ràng lắm, ta phải phân biệt ba pho sách khác nhau : Phúc Âm, thư thánh Phaolô và các tác phẩm của các Tông đồ khác.
Căn cứ vào kiểu nói của thánh Irênêô (+202), Kinh bộ Muratori (140-155) và Origênê (+254) về Phúc Âm như một đơn vị duy nhất, chắc chắn rằng bộ Phúc Âm đã được thành hình rất sớm. Papias (70-160) thành Hierapolis (Tiểu Á) có nói tới nguyên bản Phúc Âm thánh Matthêô, thánh Marcô và thánh Gioan. Thánh Justinô (+170) có biết và có trích bốn Phúc Âm, tuy không trích tên tác giả, dưới một danh từ chung : Ký ức các Tông đồ. Theo A. Harnack, bộ Phúc Âm đã được thành hình ở Tiểu Á dưới thời Hoàng đế Adrianô (117-138).
Tập thư thánh Phaolô mà thư 2 Phêrô có nói tới (3,15) được thành hình sớm hơn. Theo E. J. Goodspeed, tập thư thánh Phaolô đã thành hình vào cuối thế kỷ I. G. Zuntz cũng nghĩ tập thư thánh Phaolô đã thành hình vào khoảng năm 90 và 100 do công trình của giáo đoàn Alexandria. Thư gửi tín hữu Do-thái chưa được kể vào số đó.
Về pho sách thứ ba : các tác phẩm của các Tông đồ khác, chúng ta không có tài liệu gì trong tiền bán thế kỷ II, nhưng thánh Clêmentê thành Rôma (1 Cor 36,2) có biết và trích thư gửi người Do-thái; Pôlycarpô (69-155) và Papias nhắc tới thư 1 Phêrô, thư 1 Gioan và Papias cũng nhắc tới sách Khải huyền. Công vụ Tông đồ và các thư khác trong thế kỷ II rất được quí trọng và được đọc trong các buổi họp phụng vụ.
Tuy được thành hình sau tập thư thánh Phaolô, nhưng bốn Phúc Âm được đặt ngang hàng với Cựu Ước, trước các thư thánh Phaolô. Thánh Ignatiô (70-107/108) viết : Không thể lấy Luật Môsê, các Tiên tri và Phúc Âm mà khuất phục những kẻ rối đạo (Smyrn 5,1), phải nghe lời các Tiên tri nhưng nhất là phải nghe lời Phúc Âm (Smyrn 7,2).
Ba lời Chúa Giêsu được thư Barnaba (70) và thư II Clêmentê (2,4; 4,1) trích với công thức “như lời đã chép”. Các Giáo phụ đầu tiên thường trích lời Chúa Giêsu tuy đôi khi không trích đúng nguyên văn với công thức “Chúa phán (đã dạy, đã truyền) trong Phúc Âm của Người”, dù nhiều khi không nói đến một câu nào rõ ràng. Cách trích dẫn đó cho ta biết trong thời gian mà lời truyền khẩu còn đặc biệt sống động và có hiệu lực, Lời Chúa dạy được tôn trọng tột bực, nên cả khi trích Phúc Âm biên tập cũng không nói đến tên Phúc Âm đó, chỉ dùng những công thức như Chúa đã dạy, đã truyền.
Về tập thư thánh Phaolô, tuy thư 2 Phêrô (3,15 tt) có nói tới và đặt các thư thánh Phaolô vào sổ các Sách Thánh và hoàn toàn ngang hàng với Cựu Ước, nhưng các Giáo phụ thời các Tông đồ (Patres Apostolici) mặc dầu có trích thư thánh Phaolô trong các tác phẩm của mình đã không dùng công thức thường dùng để chỉ các Sách Thánh. Vào khoảng tháng bảy năm 180, khi Saturninô, quyền Tổng trấn, hỏi các vị tử đạo ở Scilli, một thị trấn nhỏ xứ Numidia, có gì ở trong bao mà họ đem theo, các vị ấy trả lời : “Chúng tôi có Sách và thư của Phaolô, người công chính”.
Sách đây chỉ Cựu Ước và Phúc Âm. Hình như các thư thánh Phaolô nơi giáo đoàn nhỏ miền bắc Phi Châu đó chưa được coi có giá trị ngang hàng với Phúc Âm và Cựu Ước. Nhưng hậu bán thế kỷ II, tập thư thánh Phaolô, cùng với Công vụ Tông đồ, thư 1 Phêrô và thư 1 Gioan được coi là chính lục. Sách Khải huyền được trích dẫn như là Lời Chúa trong thư của giáo đoàn thành Vienne và Lyon. Athênagora và Thêôphilô thành Antiôkia (+190) đã trích thư thánh Phaolô.
Một tác giả đã tiêu cực xúc tiến việc xác định Kinh bộ là một phú thương tên là Marcion, sinh quán tại Sinôpê in Pontô. Vì bất bình với Đức Giám mục thành đó do những tư tưởng lạc đạo của mình, Marcion đến Rôma năm 139, sau khi đã thăm Papias thành Hiêrapolis xứ Phrygia và Pôlycarpô thành Smyrna. Marcion được nhận vào giáo đoàn Rôma, nhưng tới năm 144 bị vạ tuyệt thông. Marcion phủ nhận Cựu Ước, vì theo Marcion Cựu Ước do Thiên Chúa của dân Do-thái, một Thiên Chúa công bằng, hay báo oán; Marcion cho rằng Kitô giáo tuyên xưng Thiên Chúa là Cha nhân ái và là Chúa mọi an ủi, vì thế chỉ những sách do Thiên Chúa nhân ái, Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô và tuyên xưng Ngài mới được công nhận.
Với Marcion, chỉ có thánh Phaolô thực là người được sai để rao giảng sứ mệnh Đấng Cứu Thế. Theo Marcion, các Tông đồ khác đã làm sai lạc ngay lời giảng dạy của Chúa bằng những yếu tố tôn giáo Do-thái. Để đối lại với Cựu Ước mà ông phủ nhận, Marcion làm một sổ những Sách Thánh của Kitô giáo buổi sơ khai, gồm có Phúc Âm Luca, môn đệ thánh Phaolô, và 10 thư thánh Phaolô (các thư Giáo mục không được liệt vào sổ đó). Marcion gọi pho sách đó là Evangelion và Apostôlon. Tuy sổ các Sách Thánh của Marcion không có nhan đề, nhưng phải được coi là một Kinh bộ vì các sách đó có mục đích thay thế Cựu Ước và do đó có tính cách một Kinh bộ và gồm một số sách nhất định.
Chắc chắn công việc của Marcion đã xúc tiến việc xác định Kinh bộ của Giáo hội, một việc đã được bắt đầu từ trước Marcion. Thái độ của Marcion có lẽ đã thúc đẩy Giáo hội tuyên bố rõ ràng các tác phẩm của các Tông đồ và các sách của các tác giả đã được các Tông đồ công nhận có giá trị như Phúc Âm.
4. Kinh bộ Tân Ước của Giáo hội Tây Phương thế kỷ III
Bốn tác giả : thánh Irênêô (+202), thánh Hippôlitô (+235), Tertulianô (+ sau 225), thánh Cyprianô và một văn kiện Fragmentum Muratorianum cho chúng ta một ý tưởng minh xác về Kinh bộ của Giáo hội Tây phương vào cuối thế kỷ II sang tiền bán thế kỷ III.
Vào thời kỳ này có một số Sách Thánh từ đời các Tông đồ vẫn được đọc trong các buổi hội họp phụng vụ và được coi ngang hàng với các sách Cựu Ước. Pho sách này là nền tảng Kinh bộ Tân Ước của chúng ta bây giờ. Pho sách đó gồm có 4 Phúc Âm, Tông đồ Công vụ, 13 thư thánh Phaolô, 2 thư chung (thư 1 Phr và thư 1 Gioan) và sách Khải huyền của thánh Gioan, tất cả là 21 quyển.
Bấy giờ người ta chưa đồng ý kiến về số các thư gọi là thư chung. Thư 1 Phêrô và thư 1 Gioan được toàn thể công nhận. Thánh Irênêô và Fragmentum Muratorianum nói tới thư 2 Gioan; chúng ta không được biết gì về thư 3 Gioan. Thư thánh Giuđa được Tertullianô và Fragmentum Muratorianum nhắc tới. Hyppôlytô trích thư 2 Phêrô.
Thư thánh Giacôbê được luân chuyển vào khoảng năm 90 tới 150, sau đó ta ít được biết đến thư đó, nhưng chắc đã được nhiều người biết vì trong Codex Corbeiensis, một bản dịch La-ngữ cổ có thư đó, nhưng thư đó chưa được nhận vào sổ các sách chính lục cho tới năm 350.
5. Kinh bộ Tân Ước của Giáo hội Đông Phương từ thế kỷ III đến thế kỷ V
Từ cuối thế kỷ II về trước, ta không được biết Kinh bộ Tân Ước ở Giáo hội Đông phương đã thành hình thế nào; ta chỉ biết vào cuối thế kỷ II pho sách của các Tông đồ cũng có giá trị như 4 Phúc Âm, nhưng cũng như bên Giáo hội Tây phương, số sách chưa được ấn định. Tiêu chuẩn để phân biệt một cuốn sách có phải là chính lục hay không là do các Tông đồ biên tập và được bảo đảm như thế bằng lời truyền khẩu.
a) Kinh bộ Tân Ước của Giáo đoàn Alexandria
Ta được biết Kinh bộ Tân ước của Giáo đoàn Alexandria qua các tác phẩm của Clêmentê thành Alexandria (khoảng 150-215), Ôrigênê (+254) và thánh Athanasiô.
Vào thế kỷ IV, Kinh bộ Tân Ước của Giáo đoàn Alexandria có 27 quyển. Trong thư 39 được viết vào mùa Phục sinh năm 367, thánh Athanasiô, sau khi liệt kê 27 quyển thuộc bộ Tân Ước đã do các Giáo phụ truyền lại, viết : “Đó là nguồn ơn cứu rỗi. Chỉ trong các sách đó, Tin Mừng, lý thuyết về đời sống đạo đức đã được rao giảng. Không ai được thêm vào hay bớt đi”.
b) Kinh bộ Tân Ước của Giáo đoàn xứ Palestina
Thánh Cyrillô, Giám mục thành Giêrusalem (315-386), cho ta biết về Kinh bộ Tân Ước của Giáo đoàn Palestina.
Trong bài giải thích giáo lý thứ tư năm 348, thánh nhân viết : “Về Tân Ước, chỉ đọc 4 Phúc Âm, các (Phúc Âm) khác đều không chính xác và có hại … Hãy nhận sách Công vụ 12 Tông đồ, 7 thư chung của thánh Giacôbê, Phêrô, Gioan và Giuđa và sau hết 14 thư thánh Phaolô”. Trong số đó chỉ thiếu sách Khải huyền.
Thánh Hiêrônimô nói thời đó ở Palestina, sách Khải huyền chưa được công nhận là chính lục. Đến thế kỷ VI, sách Khải huyền mới được công nhận là chính lục.
c) Kinh bộ Tân Ước của Giáo đoàn Tiểu Á
Chúng ta không được biết đầy đủ về Kinh bộ Tân Ước của Giáo đoàn Tiểu Á. Eusêbiô cho ta biết Apolloniô trong tác phẩm chống lại bè rối Cataphrigianô, trước tác vào khoảng năm 200 sau Công nguyên, đã trích Khải huyền của thánh Gioan.
Firmilianô thành Cêsarêa ở Cappadocia trong thư gửi thánh Cyprianô thành Carthaginê năm 256 sau Công nguyên có trích thư 1 Phêrô (3,2). Thánh Basiliô (+379) coi sách Khải huyền là chính lục. Thánh Grêgôriô Nazianzênô (+390) để lại một sổ các sách Tân Ước bằng văn vần, gồm các sách Tân Ước trừ sách Khải huyền. Thánh Grêgôriô thành Nysse (+394) trích sách Khải huyền của thánh Gioan. Thánh Êpiphaniô thành Salamina (+403) có Kinh bộ Tân Ước gồm 27 quyển.
d) Kinh bộ Tân Ước của Giáo đoàn xứ Syria
Ta biết Kinh bộ Tân Ước của Giáo đoàn Syria qua tác phẩm của thánh Lucianô (+312), Diôdôrô thành Tarsô (trước năm +394), thánh Gioan Kim khẩu (+407), Severianô thành Gabola (sau năm +408), Theodorêtô (+457), gồm 22 quyển. Chỉ trong thế kỷ V, các nhà thần học xứ Syria mới công nhận 2 Phêrô, 2 và 3 Gioan, Giuđa và Khải huyền là chính lục.
6. Kinh bộ của Giáo hội Tây Phương đầu thế kỷ V
Thế kỷ IV nhiều Công đồng họp để chống lại bè rối Ariô là dịp để Đông, Tây trao đổi ý kiến. Đàng khác, nhiều vị trong cuộc chiến đấu với bè rối Ariô phải đi đày như : thánh Athanasiô phải đi đày Trève (336-337), Rôma (340-343) và nhiều nơi khác; thánh Hilariô thành Poitiers phải đi đày Frigia (356) và Milanô; Lucifêrô di Cagliari (+371) bị đày đi Germanicia xứ Syria, đi Eleutêrapoli xứ Palestina, đi Tebaide và cuối cùng đi Antiôkia. Thánh Hiêrônymô đã qua các thành Constantinôpoli, Alexandria, Antiôkia và cuối cùng đến Palestina.
Thánh Hiêrônymô đã ở đó nhiều năm cho đến khi qua đời (+420). Thêm vào đó có nhiều bản văn Hy-lạp được dịch ra La ngữ. Dẫn đầu trong việc đó là thánh Hiêrônymô và Rufinô (+411). Qua những bản dịch đó, Tây phương được biết tư tưởng của Đông phương hơn. Những sự kiện trên làm cho hai bên thêm quí trọng những sách đệ nhị lục (thư gửi tín hữu Do-thái, 2 Phêrô, 2 và 3 Gioan, Giacôbê, Giuđa, Khải huyền) và có một kinh bộ như nhau.
Trong thư gửi cho Dardanô năm 411, thánh Hiêrônymô viết rằng những người La-tinh không nhận thư gửi người Do-thái là chính lục, cũng như người Đông phương không coi sách Khải huyền là chính lục, nhưng thánh nhân coi cả hai là chính lục vì thư gửi người Do-thái được Giáo hội Đông phương và sách Khải huyền được Giáo hội Tây phương công nhận.
Do ảnh hưởng của thánh Athanasiô, các thư 2 Phêrô, 2 và 3 Gioan, Giacôbê và Giuđa trước năm 380 không được biết tới là bao, nhưng vào đầu năm 400 được nhiều người biết tới và thánh Giacôbê và thánh Giuđa Tông đồ được coi là tác giả hai thư mang tên các ngài.
Dầu sao chắc chắn rằng vào năm 382 khi thánh Hiêrônymô hiệu đính bản Vulgata, Kinh bộ Tân Ước gồm 27 quyển. Sau này nhiều lần thánh Hiêrônymô có đưa ra những hoài nghi về tính cách chính lục của 2 Phêrô, 2 và 3 Gioan, Giuđa, Giacôbê; thánh nhân đã làm việc đó với tư cách một sử gia hơn là với tư cách một nhà thần học. Ba Công đồng họp tại miềm Bắc Phi châu : Hippôna (393), Carthaginê (397 và 419) đều công nhận Kinh bộ Tân Ước có 27 quyển.
7. Kinh bộ Tân Ước từ Công đồng Trentô về sau
Kinh bộ Tân Ước gồm 27 quyển vào thế kỷ V, được Giáo hội Đông phương cũng như Tây phương công nhận. Thời kỳ Trung cổ cũng không bàn cãi gì nữa. Cùng lắm người ta chỉ nhắc lại rằng trong quá khứ đã có những hoài nghi về giá trị các sách thuộc đệ nhị lục. Thánh Isidôrô thành Sevilla (+636) nói tới tư tưởng của thánh Hiêrônymô về thư gửi người Do-thái, thư Giuđa, thư 2 Phêrô, thư 2 và 3 Gioan, nhưng thánh nhân coi những sách đó là chính lục.
Với sự phát triển của cổ học và khảo cứu về nguồn gốc Kitô giáo, người ta lại tranh luận và hoài nghi về Kinh bộ. Những cuộc tranh luận càng thêm sôi nổi vì thái độ những người Thệ phản. Những người này ngay khi họ không chối giá trị những sách thuộc đệ nhị lục, họ đã theo những tiêu chuẩn chủ quan để xác định tính cách chính lục. Erasmô thành Rotterdam (+1536) khảo cứu tác phẩm của thánh Hiêrônymô hồ nghi về tác giả thư gửi người Do-thái, Giacôbê, 2 Phêrô, Giuđa, 2 và 3 Gioan và Khải huyền, tuy vẫn coi những sách đó là chính lục.
Táo bạo hơn là Đức Hồng y Thoma de Vio da Gaeta, cũng gọi là Cajetanô (+1534), chú thích một cách độc đoán tư tưởng thánh Hiêrônymô, Cajetanô không những hồ nghi về tác giả các sách trên, nhưng còn chủ trương rằng các sách đó có một giá trị kém hơn về tín lý và phong hoá. Theo Cajetanô, một vấn đề về tín lý không thể dựa trên giá trị của thư gửi người Do-thái mà quyết định.
Theo Martin Luthêrô (+1546), tiêu chuẩn để xác định tính cách chính lục của các sách không phải là tiêu chuẩn lịch sử, nhưng là tôn giáo, hoàn toàn tuỳ ở lời dạy các sách đó về Chúa Giêsu và sự công chính hoá. Dựa trên tôn chỉ đó, Luthêrô chia các sách ra làm 3 hạng : hạng thứ nhất : Các thư gửi tín hữu Rôma, Galata và Phúc Âm thánh Gioan; hạng thứ hai : Phúc Âm nhất lãm vì các Phúc Âm này ghi ít lời Chúa dạy; hạng thứ ba : Thư gửi người Do-thái, thư Giuđa, 2 Phêrô, Giacôbê và Khải huyền.
Công đồng Trentô “để cất bỏ những sai lầm và gìn giữ trong Giáo hội tính cách thuần tuý của Phúc Âm” ngày 8.4.1546 đã ấn định những nguồn mạc khải làm nền tảng cho những quyết định khác.
Các nguồn mạc khải theo nghị định “De Sacris Scripturis” là những sách thuộc Kinh bộ Kinh Thánh và Thánh Truyền. Giáo hội công nhận và kính trọng các sách đó và Thánh Truyền như nhau. Công nhận Thánh Truyền vì những lời đó đã do các Tông đồ nghe chính Chúa dạy hay được Chúa Thánh Thần dạy bảo và được gìn giữ liên tục trong Giáo hội đã lưu truyền tới chúng ta “quasi per manus traditae”. Công nhận các sách Cựu Ước và Tân Ước vì tác giả các sách đó là Thiên Chúa.
Công đồng đã liệt kê tên các sách Cựu Ước và Tân Ước. Các sách thuộc Kinh bộ Tân Ước có 27 quyển : 4 Phúc Âm : theo thánh Matthêô, Marcô, Gioan và Luca; Công vụ Tông đồ do thánh Luca biên tập; 14 thư thánh Phaolô : thư gửi tín hữu Rôma, hai thư gửi tín hữu Côrinthô, thư gửi tín hữu Galata, Êphêsô, Philipphê, Colossê, hai thư gửi tín hữu Thessalônica, hai thư gửi Timôthêô, thư gửi Titô, Philêmon, thư gửi tín hữu Do-thái; hai thư thánh Phêrô Tông đồ; ba thư thánh Gioan Tông đồ, thư thánh Giacôbê; thư thánh Giuđa Tông đồ và sách Khải huyền của thánh Gioan Tông đồ.
Tiếp theo sổ các sách đó, Công đồng thêm : “Ai không nhận các sách đó toàn vẹn, cùng với mọi phần các sách đó là đáng kính và chính lục, như vẫn được đọc trong Giáo hội Công giáo và gồm trong bản Phổ thông La ngữ, nếu biết rõ và cố tình khinh thị những truyền thống trên đây sẽ bị mắc vạ tuyệt thông”.
Để chứng tỏ giá trị 7 quyển sách thuộc đệ nhị lục ngang hàng với các sách đệ nhất lục, Công đồng đã không liệt kê các sách thuộc đệ nhị lục vào phần phụ lục, nhưng xen vào chỗ các sách thuộc đệ nhất lục theo một thứ tự hợp lý. Hơn nữa, để xác định tính cách chính lục (canonicité) của những đoạn sách thường bị hoài nghi về tính cách chính xác (authenticité), Công đồng đã thêm vào nghị định đó câu “cùng với mọi phần các sách đó”.
Khi tuyên bố 27 quyển sách bộ Tân Ước là chính lục, nghị định của Công đồng Trentô không có ý nói tới tác giả nhân loại của mỗi cuốn sách.